NSƯT-NSNA PHẠM THANH HÀ
Nhiếp ảnh - Nghệ thuật ra đời từ kỹ thuật
Thuở sơ khai loài người đã phải vật lộn với thiên
nhiên để tồn tại, họ bước đi chập chững
trên mặt đất, vạch lá chặt cây làm nơi trú mưa, sống bầy đàn trong hang đá để
tránh thiên tai và thú dữ. Con người đã từng bước cải tạo chính mình và cải tạo
thiên nhiên. Với bộ não phát triển và đôi tay khéo léo, từ tiếng nói đến chữ
viết, trải qua những quãng dài nhiều chục nghìn năm những nền văn minh nhân
loại đã ra đời. Nghệ thuật tạo hình cũng sinh ra trong dòng chảy lịch sử của
nhân lọai. Đã có không ít tài liệu nói đến những tác phẩm nghệ thuật hình ảnh
đầu tiên của con người từ tranh vẽ trong hang rồi đến những hình họa khắc trên
đá. Sẽ còn nhiều hội thảo khoa học quốc tế về những hình chạm khắc cổ bí ẩn và
ý nghĩa mang tính nghệ thuật đầy ngẫu hứng tại bãi đá cổ Sa Pa của Việt Nam, về
tranh trên vách đá ở Pháp, Tây Ban Nha...
Từ những tác phẩm hội họa vô danh trên những bức
tường nhà thờ, lâu đài cổ, nghệ thuật hình ảnh mà tiêu biểu là hội họa, điêu
khắc đã phát triển rực rỡ thành những trào lưu, trường phái với các tác giả
tiêu biểu cho mỗi giai đoạn phát triển như Leonardo da Vinci(1452-1519) ở Ý, Rembrandt Harmenszoon
(1606-1669) ở Hà Lan, cùng nhiều các họa sỹ vĩ đại Pháp, Anh, Tây Ban Nha,
Trung Quốc vv… Tác phẩm của họ hiện vẫn đang trưng bày tại các bảo tàng nổi tiếng
thế giới với hàng triệu lượt khách viếng thăm hàng năm.
Với
sự phát triển của văn minh nhân loại, nghệ thuật vẽ, chạm, khắc bằng tay dần thu hẹp lại. Hình ảnh do bàn tay
con người tạo ra đàn bị tước mọi khả năng cơ bản nhất của nó. Khả năng khêu gợi
sự ngạc nhiên trước thực tế, cuộc sống, con người của Nghệ thuật phục hưng Ý,
của Chủ nghĩa hiện thực Pháp trong hội họa cũng như khả năng ma lực của bàn tay
các nghệ nhân thuở xưa đến thời nay đều trở nên bình thường. Nhiếp ảnh đã thâm
nhập vào những lĩnh vực truyền thống của hội họa như chân dung, tường thuật,
sinh hoạt. Hiện nay nhiếp ảnh là một nghệ thuật tạo hình trong thế giới đương
đại cùng với hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh. Hình họa chân dung từ địa vị cao
sang và độc tôn dành cho vua chúa, quý tộc hay những nhân vật khác có đặc quyền
đã trở thành những hình ảnh quảng đại, thành hàng hóa trong sự hoàn thiện kỹ
thuật của nhiếp ảnh. Nếu như bức họa Mona Lisa được họa sỹ thiên tài Leonardo
da Vinci thực hiện trong 4 năm (từ 1503-1507) thì hiện nay chỉ trong chốc lát người
nhiếp ảnh gia có thể chụp ngay được một tấm chân dung người mẫu trong studio
hay thiếu nữ thanh xuân ngoài trời. Không riêng người chụp chuyên nghiệp, bất
kỳ một con người bình thường nào cũng có thể dung máy ảnh hiện đại hoặc điện
thoại thông mình để chụp cảnh hoặc selfie
tại những địa danh nổi tiếng.
Minh họa 1: Trong bảo tàng Louvre. Ảnh- Thanh Duy.
Trong
bức ảnh trên là hàng trăm du khách đua nhau chụp lại, tự chụp mình trước bức
họa Mona Lisa nổi tiếng trong bảo tàng Louvre ở thủ đô Paris- CH Pháp. Được
biết mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt người khách du lịch đến gian trưng bày
này rồi đem về hoặc chia sẻ cả trăm nghìn bức hình chụp lại các tuyệt tác hội
họa cũng như ảnh của chính những du khách. Đến mức Davit Piper
trong cuốn sách Voir et Comprendre la Peinture (Thưởng ngoạn hội họa, trang 17, biên dịch Lê Thanh Lộc - NXB Văn
hóa Thông tin Hà Nội 1997) đã phải thốt lên: - Có vẻ từ nay nghệ thuật đã mất đi khả năng thực tiễn của nó là làm nhân
chứng và gìn giữ kỷ niệm, cái chức năng được máy chụp ảnh thực hiện một cách rẻ
tiền và nhanh chóng…
Khuôn khổ bài viết này sẽ không đi quá xa vào tính đại chúng của nhiếp ảnh mà muốn nhấn
mạnh: nghệ thuật tạo hình hiện đại không chỉ được thực hiện bằng đôi tay khéo
léo của con người mà còn được sáng tạo nhờ sử dụng công nghệ. Nhiếp ảnh, điện
ảnh và truyền hình đều ra đời từ những phát mình kỹ thuật.
Có họa sỹ cho rằng hội
họa đã khai sinh ra nhiếp ảnh. Chắc chắn đó là một nhận định chưa đúng vì những
thí nghiệm của nhà khoa học Pháp Joseph
Nicéphore Niepce (1765-1833) vào khoảng năm 1826-1827 trong căn phòng làm việc của mình tại Saint Loup de Vanrennes Saint-Loup-de-Varennes, đã thực hiện thành công bức
ảnh cố định (permanent photograph) đầu tiên với tên La cour du domaine du Gras. Bức ảnh được thực hiện
trong vòng 8 giời đồng hồ. Mục đích của Niepce là làm sao lưu giữ được hình ảnh của vật thể qua tác dụng của ánh sáng... Bức ảnh này hiện còn được lưu giữ trong
bộ sưu tập của Gernsheim ở trường ĐH Texas (Mỹ). Có thể nói đây là bức ảnh xưa
nhất tồn tại đến nay mà thời ấy Niepce gọi đó là hình ảnh còn sống sót trong thế giới thực. Luois Jaques Mandes Daguere
(1878-1851), nghệ sỹ, nhà vật lý học người Pháp đã cộng tác và kế tục công việc
của Niepce để phát minh ra chiếc máy ảnh chụp bằng phương pháp dương bản. Bức ảnh
Đại lộ Templ (1838) có thời gian chụp
10 phút của Daguere hình ảnh chỉ có độc bản (không phải chụp từ negative rồi
phóng ra giấy như ảnh chụp phim sau nảy). Ông phải hiện hình qua thủy ngân độc
hại và phải xem với một góc độ thích hợp. Sáng chế của Daguere được chính phủ
Pháp mua lại để tặng cho toàn nhân loại. Và năm 1839 đánh dấu sự ra đời chủa
nhiếp ảnh thế giới.
Phát
minh về hiện và lưu ảnh của Niepce và Dauege khác hẳn với phương pháp chép cảnh trong buồng tối camera obscura mà các họa sỹ châu Âu vận
dụng từ mấy thế kỷ trước thời đại của hai ông.
Minh họa 2: Camera obscura
Với sự phát triển như
vũ bão của khoa học kỹ thuật, kỹ thuật nhiếp ảnh đã có những bước tiến dài các
thế hệ máy ảnh không ngừng được cải tiến và hoàn thiên. Từ chỗ hình ảnh được
hiện nhờ các tấm kính tráng muối bạc, việc chụp ảnh về sau chuyển sang dùng
phim miếng, phim cuộn với lớp gelatin tráng các lớp nháy sáng và nhạy màu. Đến
nay máy ảnh kỹ thuật số với chip cảm biến hiện đại chuyển tín hiệu hình ảnh
thành những dãy số để lưu trữ, xử lý hậu kỳ theo quy trình giải mã thuật toán
khi in ra ảnh.
Sự
thay đổi về công nghệ của của nhiếp ảnh cũng nằm trong quy luật phát triển mà nghệ thuật tạo hình bằng tay của hội họa
và điêu khắc từng trải qua trước đó. Đó là sự phát triển
của phương tiện và vật liệu tạo hình. Thuở đầu con người vẽ, khắc trên đá, trên
gỗ rồi trên giấy, trên vải… Nặn tượng bằng đất nung, đúc đồng, ghép hình bằng
gốm sứ, hay vẽ trên những tấm vải toan bằng bút vẽ đều được thể hiện bằng đôi
tay. Nhiếp ảnh thu hình ảnh qua ống kính quang học rồi tái hiện lại chúng bằng
chất liệu cảm quang trên mặt phim, in hình trên mặt giấy hoặc phóng hình ảnh
bằng máy chiếu. Sự ra đời và phát triển của nhiếp ảnh gắn liền với cách mạng
khoa học kỹ thuật thế kỷ 19. Cũng trong dòng thác công nghệ ấy điện ảnh rồi truyền
hình cũng lần lượt xuất hiện.
Nghệ thuật nhiếp ảnh và hội họa:
Các
họa sỹ cho rằng nhiếp ảnh ra đời từ hội họa có lý một phần vì Louis Daguere trước khi công bố bức
ảnh đầu tiên của mình bằng phương pháp hiện ảnh đã là họa sỹ và ông mang ý tưởng
làm ra chiếc máy không cần bút vẽ. Chỉ
sau phát minh ra máy ảnh của Daguere vài năm, đến năm 1843 các họa sỹ người Scotland David Octavius Hill ( 1802-1870) và Robert Adamson (1821-1848)
đã thể hiện những bức ảnh chân dung mang tính hội họa trong đó chuyển tải tính
cách của thế giới nội tâm khi tạo hình nhân vật.
Minh họa 3: Ảnh chân dung của David Octavius Hill và Robert Adamson
Những bước
đi tiên phong của các họa sỹ trong lĩnh vực nhiếp ảnh đã đem đến cho nghệ thuật
non trẻ này những thủ pháp tạo hình truyền thống của hội họa. Đó là sự kế thừa
các phương pháp bố cục, biểu hiện ánh
sáng và các nhiếp ảnh gia hiện nay vẫn vận dụng những tinh hoa của tạo hình hội
họa. Theo M.X Kagan ( Mỹ học và Ảnh Nghệ thuật – NXB Văn hóa Hà Nội 1980, trang 71) mối quan hệ giữa nghệ
thuật nhiếp ảnh và hội họa đã được hình thành và sẽ còn phát triển…. Ở thời
kỳ đầu nghệ thuật nhiếp ảnh còn non trẻ
đã ra sức học tập bà chị của mình-(M.X
Kagan)
Sự phát triển nhảy vọt về công nghệ của nhiếp ảnh cũng như những thành tựu
của nó trong các lĩnh vực tạo hình, báo chí, và mọi đời sống xã hội, một mặt
giúp nó củng cố vững chắc vị trí của một
loại hình nghệ thuật hiện đại, mặt khác vẫn bị dị nghị. Cũng theo M.X
Kagan ( Mỹ
học và Ảnh Nghệ thuật
– NXB Văn hóa Hà Nội 1980, trang 11-12) thì nhiều nhà lý luận mỹ học hiện nay vẫn coi
nhiếp ảnh là sự sao chép hiện thực trong khi đối với nghệ thuật thì máy móc chỉ
làm trung gian trong việc xây dựng hình tượng. Họ
cho rằng nhiếp ảnh mô tả các đối tượng một cách thụ động trong khi nghệ thuật
đúng nghĩa là sự tái tạo hiện thực khách
quan một cách chủ động và sáng tạo.
Khác với các loại hình nghệ thuật truyền thống vừa miêu tả đối tượng, vừa biểu
lộ quan hệ của mình với các đối tượng đó thì nhiếp ảnh bị hạn chế ở chỗ chỉ sao chép đối tượng. Họ cho rằng chỉ đạo nhiếp ảnh không phải bằng tài năng
mà bằng kỹ năng còn nghệ thuật là kết
quả của đầu óc tưởng tượng, là con đẻ của tài năng và cảm xúc. Về phía những
người bảo vệ nghệ thuật nhiếp ảnh thì khẳng định hình thức sáng tạo mới mẻ này,
là phương tiện đặc biệt miêu tả thế giới
nhìn thấy, … bức ảnh sẽ trở thành nghệ thuật nếu tác giả của nó có kỹ năng
và năng khiếu thẩm mỹ.
Sử dụng nhiều
thủ pháp tạo hình truyền thống của hội họa nhưng nhiếp ảnh đã vượt qua hội họa ở
tính hiện thực. Ảnh tài liệu đem lại cho người xem những thông tin, tin tức tuyệt
đối khách quan, không bị bất cứ nguyên nhân chủ quan nào chi phối. Hơn thế nữa,
nhiếp ảnh còn là nghệ thuật của khoảnh khắc. Nó cho chúng ta nhìn được cuộc sống
lưu lại từ trong những 1/50 giây, 1/1000 giây … hết sức ngắn ngủi để lưu lại và
diễn tả những hiện tượng và biểu cảm rất khó nhận ra từ đời sống. Năm 1957 Henry
Cartier-Bresson từng trả lời tờ Washington Post Washington Post rằng: "Nhiếp ảnh không
giống như tranh vẽ. Có một phần sáng tạo trong giây lát khi bạn chụp một bức
tranh. Mắt của bạn phải nhìn thấy một bố cục hoặc một biểu hiện mà chính bản
thân cuộc sống cung cấp cho bạn, và bạn phải biết trực giác khi bấm vào máy ảnh.
Đó là thời điểm mà nhiếp ảnh gia sáng tạo” .
Minh họa 4: Ảnh Elliott Erwitt
Ảnh nghệ
thuật có nhiệm vụ đặc biệt là xây dựng hình tượng nhân vật, nói lên mối quan hệ
của các sự kiện đối với con người và nói lên giá trị tâm lý xã hội đối với những
sự kiện ấy.
Nhiếp ảnh- sự câm lặng vĩ đại, như những nghệ thuật tạo
hình trước nó đã làm được. Một khung tranh, một
bức ảnh cũng có câu chuyện kể về những số phận mà không cần phải nói bằng lời.
Người xem sẽ tự cảm nhận ngôn ngữ của nhiếp ảnh thông qua sự đậm nhạt, màu sắc,
ánh sáng cũng như thần sắc nhân vật trong ảnh.
Nhiếp ảnh và điện ảnh:
Nhiếp ảnh cũng như điện ảnh đều là nghệ thuật từ công nghệ. Nhưng một khuôn hình trích ra từ một cảnh quay không thể so sánh với một bức ảnh nhất là nó không được nhận thức trong một loạt các khuôn hình liên tiếp khác và trong mọi trường hợp nó không được thiết lập để xem xét như một hình ảnh nhiếp ảnh- Alecxandr Iosifovich Lapin đã viết trong cuốn sách Nhiếp ảnh là ... (NXB Treemedia 2013, tr 189). Điện ảnh là chuyển động. Theo nhà lý luận lỗi lạc, nhiếp ảnh gia Nga, người nổi tiếng với hơn 20 cuộc triển lãm quốc tế và nhiều tác phẩm được lưu giữ ở các bảo tàng thế giới, thì đó là chuyển động của từng hình, tạo nên ảo giác chuyển động vật lý thực tế trên màn ảnh, đó là chuyển động nhân vật hoặc mẩu riêng rẽ của tường thuật điện ảnh, bị hạn chế bởi các cảnh trước và sau nó. Chúng có thể thay đổi góc nhìn hay cỡ cảnh, có thể là cú lia hoàn chỉnh hay camera tiến lùi, hoặc như không gì thay đổi cả, chỉ là nhân vật mở mắt hay là đút tay vào túi- (Trang 188)
Cảnh
quay - cơ sở của khái niệm ngôn ngữ điện ảnh, đơn vị nhỏ nhất của montage. Một
trường đoạn gồm nhiều cảnh phim, mỗi một bộ phim bao gồm nhiều trường đoạn với
cả nghìn cảnh quay với hàng trăm ngàn frame ảnh.
Nhưng
với nhiếp ảnh chỉ một lần bấm máy với một frame
hình lưu lại thôi đã là một tấm ảnh độc lập có một thế giới thông tin và có
một câu chuyện kể bằng ngôn ngữ hình riêng.
Nhưng
so với Điện ảnh là Nhiếp ảnh động với
24 hình liên tiếp trong một giây, liệu một hình ảnh được fic lại như trong tác phẩm nhiếp ảnh hoặc (một bức tranh) có những
yếu tố sống động ?
Minh
họa 5-
Tranh Vào ban đêm. Sóng xanh 1876
Trong
bức tranh của họa sỹ lãng mạn Nga Ivan Aivazovxki là những đợt sóng muốn nhấn
chìm con tàu với cột buồm chao nghiêng, người xem cảm nhận được là sóng cuồn cuộn
cùng nỗi kinh hoàng của dông tố. Ngoài mặt biển điên cuồng là những cơn gió mạnh
không ngừng thể hiện qua hai lá cờ quằn quại trên cột buồm. Khoảnh khắc trong một bức tranh tĩnh nhưng chứa đựng bên trong sự dữ dội của biển cả khiến người xem như đang nghe âm thanh sóng dữ.
Minh họa 6: Đà Lạt lúc lên đèn. Ảnh Phạm Thanh Hà
Bức ảnh trên do tác giả (PTH) chụp trong đợt sáng tác tháng 3-2016 của các nghệ sỹ Đại học Sân khấu Điện ảnh tại thành phố Đà Lạt. Thành phố vừa từ chiều chuyển sang tối với ánh đèn bừng sáng khắp thánh phố, in bóng xuống hồ Xuân Hương thơ mộng. Sự chuyển động của cuộc sống thể hiện qua những vệt sáng do xe cộ vẽ nên quanh bùng binh trung tâm thành phố, như rắn lượn quanh hồ. Bức ảnh được lộ sáng với thời gian 30 giây. Lưu một khoảng thời gian dài vào một khoảnh khắc trong khuôn hình là một thủ pháp tạo hình độc đáo chỉ riêng của nhiếp ảnh. Nếu xem khuôn hình trên bằng hình ảnh do máy quay phim ghi lại người xem sẽ thấy cụ thể những chiếc ô tô to nhỏ cùng xe máy nối đuôi nhau chạy trong một cảnh quay độ dài nhiều giây. Nhưng trong bức ảnh chúng bị mất dạng và để lại những vệt kẻ sáng. Cùng một nguyên lý tái hiện hình ảnh và màu sắc nhưng khác nhau phương tiện kỹ thuật, thủ pháp thực hiện, điện ảnh và nhiếp ảnh diễn đạt sự sống động bằng ngôn ngữ khác nhau.
Bức ảnh trên do tác giả (PTH) chụp trong đợt sáng tác tháng 3-2016 của các nghệ sỹ Đại học Sân khấu Điện ảnh tại thành phố Đà Lạt. Thành phố vừa từ chiều chuyển sang tối với ánh đèn bừng sáng khắp thánh phố, in bóng xuống hồ Xuân Hương thơ mộng. Sự chuyển động của cuộc sống thể hiện qua những vệt sáng do xe cộ vẽ nên quanh bùng binh trung tâm thành phố, như rắn lượn quanh hồ. Bức ảnh được lộ sáng với thời gian 30 giây. Lưu một khoảng thời gian dài vào một khoảnh khắc trong khuôn hình là một thủ pháp tạo hình độc đáo chỉ riêng của nhiếp ảnh. Nếu xem khuôn hình trên bằng hình ảnh do máy quay phim ghi lại người xem sẽ thấy cụ thể những chiếc ô tô to nhỏ cùng xe máy nối đuôi nhau chạy trong một cảnh quay độ dài nhiều giây. Nhưng trong bức ảnh chúng bị mất dạng và để lại những vệt kẻ sáng. Cùng một nguyên lý tái hiện hình ảnh và màu sắc nhưng khác nhau phương tiện kỹ thuật, thủ pháp thực hiện, điện ảnh và nhiếp ảnh diễn đạt sự sống động bằng ngôn ngữ khác nhau.
Tác
phẩm hội họa của Ivan Aivazovxki nêu trên cũng nói lên rằng, dù hình thức biểu
đạt khác nhau nhưng các tác phẩm nghệ thuật tạo hình đều có điểm chung là đều
mang cảm xúc thẩm mỹ của người sáng tác và tính tạo hình bằng những ngôn ngữ
của ánh sáng, đường nét trong các tác phẩm của họ. “Người nghệ sỹ trong
lĩnh vực nhiếp ảnh, cũng như trong các lĩnh vực khác là người điều khiển các ý
tưởng, tư duy sáng tạo các hiện tượng hình ảnh và hoàn thiện chúng bằng trình độ
nghề nghiệp của mình. Anh ta tự do với nội dung cảnh chụp và thời điểm hành động,
theo thời gian; anh ta lựa chọn vị trí chụp và tính chất ánh sáng của đối tượng
hình ảnh; trong việc xử lý kỹ thuật và thủ pháp nghệ thuật – những hệ thống
quang học khác nhau, kính lọc màu, các phương pháp tráng phim negative và
positive, góc độ, thấu thị ảnh, cỡ cảnh, cấu trúc đường nét và tông mật độ của
khuôn hình. Đó là những công cụ điều hành các phương tiện luôn ngoan ngoãn và
phục tùng người nghệ sỹ, cho phép làm sâu sắc và mở toang ý tưởng, đề tài cho nội
dung và đạt tới hình tượng thể hiện của chủ đề trong quyết định tạo hình cuối
cùng của bức ảnh. Như vậy, trong nhiếp ảnh không có gì cản trở việc hình thành
tác phẩm nghệ thuật. Nó bước vào thế giới nghệ thuật khi nhiệm vụ của nó là
khám phá con người và tái hiện hiện thực cho những bức ảnh thông qua các hình
tượng nghệ thuật”-
(Đưco Lidia Pavlovna, Những cơ sở bố
cục ảnh, trang 6)
PTH