Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2015

QUAY PHIM CHÂN DUNG


  NSƯT Phạm Thanh Hà
  (Trích từ cuốn sách Quay phim Điện ảnh và Truyền hình)

   Nhân vật trong tác phẩm trong tác phẩm phim tài liệu là người thật việc thật được thể hiện với góc nhìn của các tác giả và các cảnh quay thể hiện lại những lát cắt tiêu biểu từ cuộc sống của con người đó. Đối với phim truyện, hình tượng nhân vật được truyền tải thông qua diễn xuất của diễn viên. Việc chọn diễn viên thông qua cảm nhận của đạo diễn về ngoại hình của nhân vật tương lai trong tác phẩm. Vẻ bề ngoài của diễn viên, (hoặc của nhân vật phim tài liệu), đặc điểm di chuyển,cử chỉ, điệu bộ,mối liên hệ của hình thể với phông cảnh,...vv đóng vai trò rất lớn. Hình tượng nhân vật được hợp thành từ loạt các chân dung của các cảnh quay. Trong đó nội dung - dựng bố cục có thể được xây dựng từ đa số các cảnh được quay tĩnh, cũng như được liên kết bởi các dàn cảnh động, bởi một cảnh quay động với cỡ cảnh khác nhau và ánh sáng khác nhau. 
   Khi cần xây dựng một số bố cục chân dung của một nhân vật,trong các tình huống khác nhau từ cuộc sống, đòi hỏi nhà quay phim linh hoạt với toàn bộ tay nghề của mình để quay nhân vật một cách đa dạng, biểu cảm, và nhất định phải nhận ra được những đặc thù của nhân vật đó. Một số đạo diễn, nhà quay phim mặc định rằng, ghi hình chân dung, nhất thiết phải sử dụng ống kính tele hay ống kính norman, nhất thiết phải sử dụng các kính dịu và sa cho ống kính, hình ảnh phải luôn sáng sủa…Chắc chắn đây là quan niệm máy móc. Đã đành các cận cảnh được quay bằng ống kính tiêu cự trung bình và tiêu cự dài, thu được hình khối mềm mại hơn và phông mờ hơn nhưng hoàn toàn không chỉ như vậy. Nhân vật trong phim có thể chính diện, phản diện, lúc vui tươi và khi đau khổ. Bởi vậy sử dụng đúng ống kính góc rộng khi quay cận cảnh nhân vật đôi khi lại đạt hiệu quả hơn mức yêu cầu. Khi quay với ống kính tiêu cự ngắn, cần cực kỳ cẩn thận sử dụng góc độ cao và góc độ thấp - điều đó nhiều khi dẫn đến biến dạng sai lệch tỷ lệ khuôn mặt. Tuy nhiên nhà quay phim Xô Viết ( Liên Xô cũ ) C. Urusevxky đã sử dụng ống kính rất rộng với thủ pháp bố cục động khiến bộ phim Đàn Sếu bay mang một phong cách tạo hình độc đáo.
Cảnh phim Đàn sếu bay- Quay phim Uruxevxki
   Mỗi cỡ cảnh biểu hiện một ngôn ngữ cũng như là công cụ để các nhà làm phim thể hiện. Nhân vật của chúng ta có lúc trong toàn cảnh giữa các nhân vật khác, có khi lẻ loi cô đơn thấp thoáng trong hàng cây, nhân vật có thể được quay cỡ trung cảnh bên ô cửa sổ. Khi quay các nhân vật ở cỡ trung cảnh cần phải hướng đến để sao cho hình dáng của những người, các đồ vật trong cảnh trí thuộc lớp hậu cảnh kém sắc nét hơn so với các nhân vật chính ở lớp cảnh trước.
    Gương mặt có thể ở trong bóng tối, hẳn những người xem phim Đường sơn đại địa chấn- Đạo diễn Phùng Tiểu Cương,chưa quên cảnh em gái tronglòng đất nghe tiếng người mẹ nói với nhân viên cứu hộ chọn đứa em trai để cứu.Khuôn mặt em trong ánh sáng yếu ớt nhưng đôi mắt hoen ướt đã nói lên nỗi tủi thân và tuyệt vọng. Cận cảnh cho thấy  chúng ta đang bên cạnh nhân vật và điều đó không gây cho nhân vật cảm giác xa rời. Vai trò của mắt nhìn rất lớn trong cận cảnh, đúng với nghĩa cửa sổ của tâm hồn. Đôi mắt cho khán giả đọc được cảm xúc nhân vật thông qua diễn xuất diễn viên và khi nhập vào được cảm xúc ấy khán giả sẽ đồng cảm, xao lòng cùng nhân vật. Đôi mắt còn là “ đường dẫn” cho phép khán giả nhìn cái nhìn của nhân vật với góc nhìn chủ quan. Thông thường không gian thường rộng mở hơn theo hướng nhìn nhân vật. Nhưng trong những trường hợp muốn thể hiện trạng thái không bình thường của nhân vật, hoặc do phong cách của đạo diễn khỏng trống sau lưng lại lớn hơn khoảng trống theo hướng nhìn.
Cảnh phim 2046- Đạo diễn Vương Gia Vệ.
    Cần nhớ rằng, khi quay cận cảnh nếu nếu nhân vật quá sát phông đồ vật sẽ phân tán sự chú ý của khán giả và ảnh hưởng đến việc đặt các thiết bị chiếu sáng ngược và chếch ngược cũng như gây ra bóng khó chịu của các đèn chiếu sáng thuận và bên. Ngoài ra, phông cũng cần phải chiếu sáng ít tương phản hơn so với khuôn mặt người được quay chân dung. Nói cách khác, sự chuyển tông giữa phần  sáng và phần tối trên phông cần phải mềm hơn, so với tương phản sáng tối trên gương mặt. Chỉ khi đó mới xuất hiện cảm nhận về sự hiện của không khí xung quanh.
      Cả phim truyện và phim tài liệu hay chương trình truyền hình thể hiện con người trong các trạng thái khác nhau và trong các tình huống thay đổi thường xuyên. Nhà quay phim cần đảm bảo sự kết hợp hài hòa của phông và nhân vật. Nhân vật không cần phải khác biệt trong bối cảnh ( cũng như với phông), trừ các trường hợp, điều đó được cân nhắc bằng giải pháp thể hiện. Sử dụng khẩu độ f = 1:2; f = 1:2,8 có thể thu được kết quả tốt cả ở cận cảnh và trung cảnh.
     Nếu như hội họa thể hiện chân dung nhân vật trong một khoảnh khắc thì điện ảnh và truyền hình  sử dụng sự phản ánh hình mẫu người đương thời với những bố cục luôn thay đổi, chiếu sáng đa dạng cùng với ưu thế động của máy quay.
     Ghi hình chân dung khi làm phóng sự người quay phim phải nắm bắt được những sự kiện phát triển theo không gian và thời gian. Dòng sự kiện không thể giữ, dừng và lặp lại nên người quay phải ứng biến nhanh cùng những chiêu bắn tỉa thiện nghệ. Diễn biến nhanh chóng của sự kiện trong khoảng thời gian hạn chế ngặt ngheo cần phải được nhà quay phim ghi lại các cảnh trung thực về bản chất và truyền cảm của khuôn hình.
   Khi quay phỏng vấn, nhân vật trong cảnh quay cần phải làm việc tuyệt đối tự nhiên như không có sự hiện diện của máy quay.Trong các trường hợp người cảm thấy không cởi mở, có ý thức đối phó với máy quay, cần phải áp dụng hoặc là phương pháp "giấu máy" hoặc là phương pháp "quen máy". Những khi đó nhân vật hoặc  không biết sự hiện diện của máy quay, hoặc là đã quen thuộc, không chú ý đến máy quay nữa. Cận cảnh trong tác phẩm tài liệu không thể che dấu đằng sau những lời nói sáo rỗng, với bài trả lời phỏng vấn  được đánh máy trước. Con mắt của người được phỏng vấn sẽ bộc lộ sự chân thành hay ngụy tạo của cảnh quay.  
     Dù ghi hình chân dung phóng sự cũng phải tuân thủ các quy luật bố cục  hình ảnh như sự cân bằng của cảnh, điểm nhấn chính xác  theo tư duy bố cục, không để các chi tiết thừa làm phân tán sự chú ý của khán giả.
      Các đạo diễn hay yêu cầu ghi hình “chặt” hơn, và “chặt” hơn nữa, khi không hiểu rằng cỡ cảnh quá hẹp chỉ làm hại nhân vật của họ, nhất là khi ghi hình nghệ sỹ đang hát. Đúng lúc bài hát đang làm căng gương mặt của họ, ở cổ mạch máu nổi lên, miệng mở rộng ..v.v. Tất cả các "tiểu tiết" này xuất hiện thường xuyên, và không được tính đến, khi quay cận cảnh. Thậm chí những hội thoại căng thẳng, kịch tính theo dõi ở trạng thái cận cảnh nhất thì không tốt. Nghệ sỹ Ưu tú, nhà quay phim Dương Đình Bá từng nói : - Nhiều cận cảnh tức là không còn cận cảnh. Hiện trong phim điện ảnh của chúng ta đang quá nhiều cận cảnh. Cận cảnh bị lạm dụng khiến cỡ cảnh này, vốn là cỡ cảnh của nội tâm nhân vật trong phim trở nên không đắt, mất “ thiêng “ và trở nên nhàm. Một mặt, cận cảnh trong phim của ta lại được sử dụng nhiều để trốn phông cảnh dựng, hoặc được “trám” vào để chữa sai trục diễn xuất.
   Cũng có những diễn viên luôn thích được quay cận và cận hẹp. Nhưng hình ảnh khi trình chiếu lại đem lại lỗi của quay phim. Khán giả không thể thiện cảm được khi một khuôn mặt béo và tròn của diễn viên lại được quay bằng ống kính tele ở cảnh cận hẹp ở góc máy chính diện. Ở một phương diện khác những khi nhân vật đang lắng nghe có thể quay thậm chí với cảnh cận hẹp, trạng thái  yên lặng của nhân vật  là cơ hội để truyền đến cho khán giả sâu sắc, chân thực nhất.
   Trên sân khấu, diễn viên diễn hình thể trong một không gian ước lệ mà tại nhà hát khán giả xem kịch nhìn thấy toàn bộ thân hình diễn viên cùng các hành động, cử chỉ. Nhưng điện ảnh với thế mạnh riêng của cận cảnh cho phép đi vào thế giới nội tâm của nhân vật. Cận cảnh điện ảnh cho phép điễn viên tìm thấy nhân vật của mình còn khán giả thông qua nhân vật gặp gỡ những diễn viên tài năng. Trong cuốn sách Nghệ thuật quay phim và video, tác giả Joseph V.Mascenll lưu ý các nhà quay phim khi quay cận cảnh cần chốt chặt chân máy. Song điều này rất khó cho quay phim khi diễn viên không tiết chế khi diễn xuất trong cỡ cảnh cận. Trong cỡ cảnh hẹp, mọi trạng thái động trên khuôn mặt, cổ và vai đều được mạnh hơn rất nhiều. Nhiều diễn viên với thói quen vừa thoại vừa gật đầu, đu đưa người khi diễn xuất gây những khó khăn không nhỏ cho quay phim khi quay cận cảnh. Nếu không điều tiết khuôn hình trong lúc quay thì đầu hay mặt của diễn viên sẽ có lúc chạm hoặc vượt ra khỏi khung hình bố cục. Điều chỉnh liên tục sẽ khiến các cảnh quay bập bềnh theo câu thoại của diễn viên, gây khó chịu cho cảnh quay lúc xem. Cận cảnh đòi hỏi diễn viên phải biết diễn xuất theo cỡ cảnh, còn người quay phim cũng phải thể hiện bản lĩnh của mình trong những “ca khó”.
    Đối với phim truyện và chương trình truyền hình  lựa chọn đúng và phù hợp vai diễn viên là một nửa của sự thành công. Cũng như nghệ thuật sân khấu, điện ảnh và truyền hình cũng hình thành công thức người với vai chính diện và người với vai phản diện. Ý tưởng cơ bản của tác phẩm thường đặt vào nhân vật chính diện.
Mặc dù vai trò của nhân vật phản diện đôi khi được trao cho nghệ sỹ với vẻ chính diện nhưng đa số các đạo diễn không đưa vai chính diện cho diễn viên có vẻ mặt phản diện. Tuyệt đối hóa chọn diễn viên theo vẻ bề ngoài tạo thuận lợi cho việc ghi hình, nhưng dễ dẫn đến việc trùng lặp, nói cụ thể hơn là “ thuộc mặt” nhân vật. Trong phim Việt nam, chúng ta từng thấy có diễn viên chuyên đóng bộ đội, công an, có diễn viên chuyên đóng kẻ địch hay tướng cướp, rồi những vai ông bố, bà mẹ đau khổ nhưng thương con có diễn viên liên tục đảm nhiệm. Số diễn viên đóng cả vai chính , phản diện không nhiều do đa số các đạo diễn muốn an toàn và không dám mạo hiểm. Trong số ít ỏi diễn viên sang ngang có Lâm Tới với nhưng vai anh Núi (Đường về quê mẹ - Đạo diễn Bùi Đình Hạc), Ba Đô (Cánh đồng hoang–Đạo diễn Hồng Sến) và Trần Sùng (Vĩ tuyến 17 ngày và đêm–Đạo diễn Hải Ninh)
                          Cảnh phim Mùi Cỏ Cháy – Đạo diễn Nguyễn Hữu Mười
Năm 2008 khi quay phim Người lính đặc nhiệm H88 chúng tôi đã gặp Lê Chí Kiên ở vai một tên cướp và cũng ấn tượng khá tốt ở vai phụ này. Nhưng đến năm 2010 và 2011 tôi đã lại gặp anh trong vai Đại đội trưởng Phong, phim Mùi Cỏ Cháy. Lê Chí Kiên đã gây cho chúng tôi sự bất ngờ về một người chỉ huy máy móc có phần nghiệt ngã với bộ đội trẻ, nhưng lại là người chỉ huy dũng cảm và nhân ái. 
   Trong phim nhân vật không phải lúc nào cũng đứng nguyên tại chỗ hoặc ngồi bất động để cho nhà quay phim… chụp ảnh. Chuyển động trong dàn cảnh, các điểm dừng đầu cảnh cuối cảnh của diễn viên chính là điều kiện để nhà quay phim xác định góc mặt chính cho cảnh đó một cách hiệu quả nhất. Nâng hay dịch máy quay, lựa chọn tiêu cự ống kính là những liệu pháp quan trọng để quay phim xắp đặt hoặc tìm ra những lợi thế nhất từ vẻ mặt diễn viên. Tài nghệ của nhà quay phim là xử lý đúng tiêu cự ống kính, góc máy và cỡ hình  cho từng khuôn mặt diễn viên trong cảnh diễn. 
Nếu nhân vật nhìn thẳng vào máy quay sẽ được coi là cận cảnh chủ quan.Với các cận cảnh này nhân vật các nhân vật có thể nói trực tiếp với người xem,như cận cảnh đã trích dẫn từ phim Hơi thở tàn ở phần trên. Nhiều đạo diễn đã sử dụng lợi thế của cận cảnh chủ quan để chuyển cảnh cùng với lời tự sự của nhân vật trước khi phục hiện một sự kiện trong phim. Quay chính diện, nhìn thẳng vào máy và nói chuyện với khán giả cũng chính là các cảnh quay MC trên màn ảnh vô tuyến truyền hình.
 Mặt chếch ¾ hay được sử dụng nhất khi chụp ảnh và quay chân dung nhân vật vì khai thác được lợi thế của vẻ đẹp, khối cũng như biểu cảm của khuôn mặt cũng như tình cảm từ đôi mắt. Khuôn mặt chếch ¾ thường được quay khi các nhân vật đối thoại với góc nhìn tương đồng.

 Góc mặt nghiêng ½ Góc máy hoàn toàn khách quan đối với các nhân vật trong cảnh khi máy quay ở vị trí vuông góc với hướng nhìn của họ. Khuôn mặt nghiêng dù không biểu lộ hết nội tâm nhân vật từ đôi mắt của nhân vật nhưng cá tính vẫn được thể hiện rõ nét nhờ diễn xuất diễn viên.Thường góc độ này được dành cho những người có sống mũi dài và thẳng. Ánh sáng ngược hoặc chếch ngược hay được dùng để tăng thêm vẻ đẹp nhân vật. Đối với các nhân vật nữ,khi ghi hình với góc máy nghiêng ½ so với khuôn mặt cũng là dịp để các diễn viên thể hiện lợi thế của mái tóc và hình thể mềm mại của mình trước phái mạnh.
   Ghi hình chân dung trong trường quay với chiếu sáng tự nhiên hay nhân tạo đặt ra cho công tác quay phim một số nhiệm vụ. Bản thân trường quay cần phải gây chú ý như phông, mà con người cần phải hòa nhập trong không gian đó. Chiếu sáng trường quay và con người trong nó cần phải mang tính biểu đạt, thể hiện rõ hình dáng, chi tiết, quy mô của địa điểm và đồng thời nhấn mạnh trạng thái của con người.
   Trong điều kiện sáng tự nhiên, khi đó ánh sáng chiếu vào từ các cửa sổ, tạo nên tương phản mạnh giữa sáng và tối trên gương mặt, cần thiết phải phụ sáng vào các phần tối bằng các tấm phản quang, cũng như sử dụng các thiết bị chiếu sáng với nhiệt độ màu 5600 K.
   Việc tạo ra ánh sáng có lợi nhất đối với mỗi nhân vật yêu cầu phải hiệu chỉnh ánh sáng cho gương. Hiệu chỉnh ánh sáng dựa trên 2 nguyên lý: có ánh sáng - có thông tin, có hình ảnh; không ánh sáng - không có thông tin, không có hình ảnh. Làm nhấn mạnh sáng trên phần gương mặt cần làm nổi rõ phần này hay làm tối phần khác, có thể thu hút sự chú ý. Ví dụ, nhấn sáng cho con mắt của nhân vật, làm tối chiếc cằm lớn hay chiếu sáng cái trán quá hẹp, như thể để tăng nó
   Khuôn mặt xương gầy có thể chiếu sáng bằng ánh sáng thuận, để sử dụng toàn bộ diện tích của nó. Mặt đầy đặn hoặc quá béo có thể được quay bằng ánh sáng bên với một phần mặt tối hơn. Trong điều chỉnh ánh sáng của khuôn mặt, người ta sử dụng những “đồ chơi”  như lưới, phên che, giấy mờ hay kính sof trước ống kính. Người hóa trang (make up) cũng giúp ích cho quay phim rất nhiều khi có thể tăng độ hốc hác hoặc tươi trẻ cho diễn viên theo yêu cầu của cảnh quay.  
P T H

 


Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

XU THẾ MỚI CỦA ẢNH BÁO CHÍ: Ảnh kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện

Thạc sỹ Lê Minh Yến

Ông Bill Keller, tổng biên tập tờ New York Times (nytimes.com) của Mỹ phát biểu trên tờ báo của mình: “Sự thật là cuộc chạy đua đa phương tiện đã bắt đầu và bạn sẽ nhanh chóng bị loại ra khỏi cuộc đua nếu như bạn không tăng tốc”.Trong cuộc chiến giành độc giả, các tòa soạn báo mạng điện tử buộc phải tìm kiếm những phương thức chuyển tải thông tin mới lạ, hấp dẫn. Bởi vậy, nhiều cơ quan thông tấn, báo chí đã ứng dụng cách truyền thông đa dạng hơn, hấp dẫn hơn và hiệu quả hơn cho công chúng, tạo nên xu thế đa phương tiện. Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện là một trong số những sáng tạo đấy.
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện là sự tích hợp của ảnh với ít nhất một yếu tố truyền thông hiện đại (âm thanh, hình ảnh, video, tương tác) trong môi trường báo mạng điện tử. Một sản phẩm ảnh báo chí  kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện tốt là khi các yếu tố truyền thông kết hợp nhuần nhuyễn với nhau và hỗ trợ đắc lực cho đề tài cần thể hiện. Trong ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện, ảnh luôn giữ vị trí trung tâm và nhất thiết phải được thuyết minh.
          Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện có nhiều dạng kết hợp. Phổ biến là dạng Slide show, Audio show và Interactive feature. Có thể miêu tả về các dạng này như sau:
- Slide show là việc trình chiếu lần lượt một nhóm ảnh kèm chú thích. Slide show có hai dạng: sử dụng flash hoặc không sử dụng flash. Slide show không ứng dụng flash là hình thức đơn giản nhất và sử dụng phổ biến nhất hiện nay.
- Audio show là sự kết hợp của slide show với âm thanh. Âm thanh trong dạng này có vai trò bổ trợ nội dung cho ảnh. Hầu hết audio show đều sử dụng flash.
- Interactive Feature là sự kết hợp của ảnh, âm thanh, video, văn bản, đồ họa, tương tác. Trong dạng này, yếu tố tương tác giúp cho độc giả có thể chủ động tiếp nhận thông tin một cách hiệu quả và phù hợp nhất với bản thân.
          Trên thực tế, yếu tố tương tác có mặt ở hầu hết các dạng ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện, chỉ khác nhau về mức độ. Yếu tố tương tác càng cao và nhiều thành phần thì sản phẩm ảnh đó càng phức tạp và khó sản xuất.
Đặc điểm của ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện trên báo mạng điện tử
Đầu tiên, ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện trên báo mạng điện tử mang đầy đủ đặc điểm của loại hình ảnh báo chí như: ảnh là sự kết hợp yếu tố thông tin và nghị luận, giữa thông tin hình ảnh và thông tin văn tự; nhiếp ảnh mang tính tài liệu xác thực; nhiếp ảnh phản ánh con người, sự kiện, sự việc trong trạng thái hành động.
Thứ hai, ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện trên báo mạng điện tử nên có các đặc điểm của loại hình báo mạng điện tử:
- Tính đa phương tiện quy định nhiếp ảnh là một trong những dạng truyền thông tương đối cơ bản của loại hình này. Ảnh báo chí hiện đại khi ứng dụng trên môi trường báo mạng điện tử được thể hiện ở hai dạng thức: ảnh tĩnh và ảnh động.
- Tính phi định kỳ, tức thời của báo mạng điện tử cho phép ảnh báo chí có thể xuất bản cập nhật, tức thời, thường xuyên và liên tục. Nhờ vào sự phát triển của công nghệ và đặc biệt là vai trò của mạng toàn cầu Internet, các nhà báo ảnh trực tuyến có thể dễ dàng xâm nhập sự kiện, nhanh chóng ghi hình và gửi về toà soạn thông qua mạng điện tử. Với tốc độ đường truyền nhanh, thậm chí các nhà báo có thể đưa tin cùng lúc với sự kiện, ví dụ như khi tường thuật bằng ảnh một trận bóng đá, hay một cuộc họp quan trọng...
Không chỉ tức thời, báo mạng điện tử còn cho phép phóng viên ảnh thường xuyên update thông tin. Điều này khác với báo giấy hoặc các loại hình báo chí khác ở chỗ nhà báo có thể đăng tải thêm hoặc bớt ảnh bất cứ lúc nào mà không phải chờ đến giờ lên khuôn hay sắp xếp chương trình như ở các loại hình báo chí khác. Ảnh báo chí trên báo mạng đạt được tối đa ưu điểm như tốc độ load ảnh, tăng số lượng ảnh, đảm bảo tính thời sự và tạo ra sự thuận tiện cho độc giả. Nhiều người tìm đến báo mạng điện tử để cập nhật thông tin cũng là vì lí do này.
- Tính tương tác trên báo mạng điện tử là một công cụ ưu việt cho phép có sự giao lưu giữa độc giả với toà soạn, độc giả với nhà báo, độc giả với độc giả, hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm ảnh báo chí. Ngay sau mỗi tác phẩm báo chí đăng trên trang báo mạng điện tử đều có mục phản hồi, tiện cho độc giả dễ dàng đóng góp ý kiến của mình.
OhMyNews từng nêu ra khẩu hiệu: “Mỗi công dân là một nhà báo”. Sự tương tác là sự hỗ trợ tuyệt vời khiến tờ báo có được một mạng lưới kết nối, thường xuyên cung cấp những nguồn tin nhanh và nóng hổi nhất. Những sự kiện bất ngờ như Vụ khủng bố 11/9, Sóng thần Nhật Bản, Tòa nhà 5 tầng sụp đổ ở Huỳnh Thúc Kháng tháng 3/2011, cháy chợ Phùng Khoang tháng 5/ 2015…được công chúng ghi hình tường tận, chi tiết diễn biến và phát hành nhanh chóng, kịp thời trên nhiều tờ báo mạng.
Theo Trung tâm báo chí công dân PEW cho biết: 90% các thư ký toàn soạn cho rằng tương lai của báo chí tùy thuộc vào việc có nhiều kết nối với người đọc hay không. Nhờ có tính tương tác mà tòa soạn nắm bắt được nhu cầu, sở thích, thị hiếu của độc giả để có thể điều chỉnh kịp thời.
Các tòa soạn ngày nay mong muốn nâng cao nhu cầu trao đổi, bàn bạc với người tiếp nhận, hoặc giữa những người tiếp nhận với nhau, do đó sáng tạo ra nhiều hình thức tương tác như chia sẻ hình ảnh, bình luận, vote,... Những công cụ này khiến gia tăng lượng độc giả và tăng thêm giá trị thông tin. Trên các tờ báo tiếng Anh nổi tiếng nhất thế giới như Nytimes.com, The Sun, USA Today, hay các tờ báo tiêu biểu tại Việt Nam như VnExpress, Dantri.com, Vietnamnet.vn...đều có các chuyên  mục, bài viết dành cho bạn đọc chia sẻ thông tin, hình ảnh và nhận được sự phản hồi khá tốt.
Khả năng liên kết lớn nhờ vào các siêu liên kết (hyperlink), các từ khoá, web link, hồ sơ... khiến thông tin trong ảnh báo chí vốn bị chi phối bởi đặc trưng là kiệm lời, nay được phân tích, lý giải trọn vẹn hơn. Nhờ đó công chúng có cái nhìn sâu sắc và toàn vẹn hơn về sự kiện. Khả năng liên kết của báo mạng điện tử thật sự mở ra một kho thông tin vô hạn cho độc giả.
Khả năng lưu trữ và tìm kiếm dễ dàng khiến ảnh báo chí được lưu trữ theo hệ thống khoa học, rất tiện lợi cho việc tra cứu, tìm hiểu. Nói không quá, có thể nói toàn bộ thế giới được mở ra trong tầm tay chỉ bằng một cú click chuột. Đồng thời với đó là khả năng tìm kiếm dễ dàng nhờ vào các mục tìm kiếm với các từ khoá được đính kèm trên mỗi trang báo mạng điện tử. Nhờ đặc tính này, ảnh báo chí có thêm công cụ để lưu giữ tư liệu theo chiều sâu, rộng của thời gian và không gian lịch sử sự kiện.
Tính xã hội hoá cao, khả năng cá thể hoá tốt. Ở đây có sự gặp gỡ tính chất ở hai loại hình báo chí. Nhiếp ảnh vốn được coi là loại hình báo chí được xã hội hóa từ khá sớm do phương tiện gọn nhẹ, dễ sử dụng, ngôn ngữ phi rào cản, thỏa mãn nhu cầu lưu giữ tư liệu, kỷ niệm của người sử dụng. Mặt khác, nhiếp ảnh chính là đôi mắt của người cầm máy, mang nhiều yếu tố chủ quan. Báo mạng điện tử là phương tiện có khả năng phủ sóng toàn cầu, không có giới hạn về khoảng cách, tính tương tác cao, do đó dễ dàng trong xã hội hoá thông tin. Ngoài ra, báo mạng điện tử cũng có khả năng cá thể hoá tốt. Tính cá thể hoá được thể hiện ở chỗ người đọc được chủ động lựa chọn tờ báo, trang báo, bài báo theo nhu cầu, đọc bao lâu tùy thích. Nhờ có sự giao thoa loại hình mà ảnh báo chí trên báo mạng điện tử, khoảng cách với công chúng bị xóa nhòa. Như vậy tính toàn cầu hóa thông tin trên báo mạng đã kéo cả thế giới xích lại gần nhau, thế giới trở thành một mặt phẳng.
Thứ ba, ảnh báo chí trên báo mạng điện tử có các đặc điểm riêng sau:
Tính thời sự cao: Khác với báo in, thông tin trên báo mạng điện tử là vô hạn. Do phải cạnh tranh độc giả, ảnh báo chí phải đặc biệt thu hút, ấn tượng, nóng hổi tính thời sự. Mặt khác, tính tức thời của báo mạng cũng khiến ảnh báo chí giàu có thêm về tính thời sự, thời điểm.
Ngôn ngữ truyền tải đa dạng, hấp dẫn: ảnh báo chí trên báo mạng điện tử có hai hình thức biểu đạt, đó là ảnh tĩnh và ảnh kết hợp với các yếu tố đa phương tiện. Trong đó, ảnh báo chí truyền thống là tổng hòa của ngôn ngữ hình ảnh và chữ viết, ngôn ngữ thông tin trực tiếp và nghị luận; ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố đa phương tiện là cấu thành của ngôn ngữ hình ảnh - chữ viết, thông tin - nghị luận, ngôn ngữ âm thanh – video - đồ họa - tương tác - flash.
Ảnh báo chí trên báo mạng điện tử mang tính xã hội hóa cao, biểu hiện khá rõ ràng qua các tiếp nhận và phản ánh, phản hồi thông tin của độc giả.
Về thiết kế và biên tập ảnh. Trên báo in, ảnh báo chí dạng nhóm được trình bày theo cơ chế đọc từ trái qua phải, từ trên xuống dưới của độc giả. Vì thế trước tiên nó phải tuân thủ các nguyên tắc thiết kế của báo in như nguyên tắc chính trị, thời sự; nguyên tắc khoa học, nguyên tắc nghệ thuật (nguyên tắc cân đối, đăng đối; nguyên tắc đậm nhạt, tương phản; nguyên tắc mảng khối; nguyên tắc đường nét; nguyên tắc xen kẽ; nguyên tắc sử dụng màu sắc; nguyên tắc phá khối; nguyên tắc nhắc lại) và đảm bảo các nguyên tắc trình bày và biên tập ảnh của ảnh báo chí dạng nhóm như ảnh đinh được căng to, nhấn mạnh, kết hợp với ảnh phụ trợ, nhằm làm sáng rõ nhất ý tưởng của nhà nhiếp ảnh. Trên báo mạng điện tử, giao diện tờ báo được thiết kế chủ yếu theo cơ chế đường mạnh, điểm mạnh, có nghĩa là tất cả các tin, bài đều nằm trên đường dẫn, dẫn dắt mắt người xem đi từ tác phẩm báo chí này đến tác phẩm báo chí kia một cách có chủ đích. Chính vì lẽ đó, ảnh báo chí trên báo mạng điện tử được trình bày có dạng tuần tự trên giao diện. Người xem cũng theo đó mà cảm nhận và hiểu biết thông tin theo ý đồ của người biên tập.
Khâu xuất bản ảnh cũng có nhiều thay đổi, nhà báo có thể dễ dàng thay đổi nội dung, thêm ảnh hoặc loại bỏ ảnh cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của tòa soạn.
Sự ra đời và phát triển của ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện trên báo mạng điện tử là tất yếu.
Lý do khiến cho ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện phát triển trên báo mạng điện tử là tất yếu:
Ảnh là mức độ đọc và ghi nhớ đầu tiên của não người. Ông Tony Buzan, tác giả của Sơ đồ tư duy đã gọi trí nhớ của con người là “trí nhớ như chụp ảnh”, điều đấy có nghĩa là não người thích hợp nhất trong việc ghi nhớ các thông tin có hình ảnh, màu sắc, những sự vật, sự việc liên quan mật thiết đến cuộc sống con người. Cơ chế tiếp nhận thông tin của não người được ứng dụng trên sơ đồ tư duy có dạng sau: Hình ảnh -> Từ khóa then chốt -> Tiêu đề -> Các chi tiết chính-> Các chi tiết phụ. Trên báo mạng điện tử giao diện báo được phát triển theo liên kết sau: Ảnh căng to ->Tít bài “đinh”-> Tít bài từng chuyên mục -> Sapo; Cấu trúc bài viết có dạng: Tít-> Ảnh to-> Sapo->Nội dung. Như vậy, ảnh báo chí trên các trang báo mạng hiện đại thường nằm ở vị trí trung tâm, thu hút mắt người đọc.
Cũng theo tác giả Tony Buzan trong cuốn sách “Sử dụng trí nhớ của bạn”, đã đề cập tới một thí nghiệm về trí nhớ của con người được thực hiện như sau: các đối tượng tham gia được xem 1000 tấm ảnh trong thời gian 1s/1 tấm. Tiếp theo, các nhà tâm lý trộn lẫn thêm 100 bức ảnh. Kết quả là hầu hết tất cả các tình nguyện viên tham gia thí nghiệm đều nhận biết gần như toàn bộ hình ảnh họ đã xem. Điều đó có nghĩa con người có khả năng ghi nhớ hình ảnh với khối lượng lớn khá tốt. Liên kết thí nghiệm này với việc sử dụng ảnh báo chí trên báo mạng điện tử thấy rằng khi công chúng muốn nhớ lại với những bài báo họ tiếp nhận trước đó thì chính những hình ảnh ấn tượng là yếu tố thông tin đầu tiên trở lại với họ, sau đó mới đến các chi tiết quan trọng của tác phẩm báo chí. Ảnh báo chí nói chung và ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện tác động mạnh mẽ đến tâm trí  công chúng bởi lẽ nó phù hợp với cơ chế hoạt động của não.
Theo bà Mia Grondahl- giảng viên, chuyên gia nhiếp ảnh của “Dự án đào tạo nâng cao báo chí Việt Nam” do Viện FOJO (Thụy Điển) phối hợp với Việt Nam tổ chức cho rằng: não người lưu giữ hình tĩnh tốt hơn hình ảnh động. Thực tế chứng minh rằng khi nhớ lại thông tin của một tác phẩm báo chí trước đó, thì hình ảnh tĩnh sẽ là yếu tố thông tin đầu tiên trở lại với công chúng. Chính vì lẽ đó, khi muốn nhấn mạnh chi tiết phản ánh, truyền hình phải quay chậm hình để công chúng tiện theo dõi. Ảnh báo chí và ảnh báo chí kết hợp các yếu tố đa phương tiện là các hình ảnh sống động, công chúng có thể chủ động chế độ xem và dừng hình tùy ý.
Ảnh báo chí  kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện đến với công chúng thông qua đường truyền internet. Những bước phát triển hạ tầng như mở rộng đường truyền hay băng thông góp phần quan trọng nhằm rút ngắn thời gian tiếp nhận thông tin của người đọc đối với hình thức ảnh báo chí hiện đại này.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ sẽ không ngừng sáng tạo ra các hình thức truyền thông mới. Khả năng tích hợp mạnh của hình thức ảnh báo chí hiện đại này sẽ đảm bảo nó luôn đón nhận những yếu tố truyền thông mới trong tương lai. Đồng thời đó cũng là nhân tố chính cho sự biến đổi và phát triển không ngừng của ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo nên một môi trường làm việc hoàn toàn mới mẻ đối với ảnh báo chí. Báo mạng điện tử với đặc điểm thông tin được lưu trữ không giới hạn nên hoàn toàn có thể đăng tải được các phóng sự lớn với chất lượng và màu sắc tối ưu. Công tác hậu kỳ hiện đại với việc ứng dụng các phần mềm xử lý ảnh thông minh như Adobe Photoshop cũng là một lợi thế lớn cho ảnh báo chí phát triển năng động phù hợp với thời đại cạnh tranh thông tin cao như hiện nay. Trong trường hợp ảnh đã đăng tải khi bị lỗi về thông tin, hoặc thiếu chú thích, người biên tập cũng có thể nhanh chóng sửa sai. Mặt khác, với sự ra đời của máy ảnh kỹ thuật số và các thiết bị hỗ trợ đã tạo nên phương thức làm việc mới cho phóng viên ảnh. Chẳng hạn, phóng viên ảnh hoàn toàn có thể nhanh chóng gửi hình ảnh mình vừa tường thuật trong một sự kiện chính trị nào đó tại Mỹ về tòa soạn Việt Nam qua hệ thống vệ tinh với khoảng thời gian chỉ vài phút. Phóng viên ảnh ngày nay có thể hoàn toàn tập trung quan sát và tư duy khi tác nghiệp sao cho có được những hình ảnh sống động và ấn tượng nhất bởi chiếc máy ảnh đã tự đảm nhiệm toàn bộ khâu kỹ thuật nhiếp ảnh từ lấy nét, chụp và lưu ảnh.
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiệ có thể bổ sung, sửa chữa những hạn chế, thiếu sót của báo mạng điện tử.  Hạn chế của báo mạng điện tử do tính tức thì và phi định kỳ quy định khiến các bài viết trên báo mạng có độ tin cậy và chính xác không cao. Đặc điểm này có thể được ảnh báo chí bổ sung, sửa chữa bởi ảnh báo chí mang đậm tính tài liệu, là hiện thực sống động, có thật nhờ lối ghi hình trực tiếp của nhiếp ảnh. Một nhược điểm nữa của báo mạng là thông tin khi tiếp nhận bằng mắt trên máy tính nên dễ mỏi, làm giảm chất lượng ghi nhớ thông tin. Tuy nhiên, nhiếp ảnh lại có được lợi thế tự nhiên thích hợp với cơ chế hoạt động của não người: não nhạy cảm với hình ảnh, màu sắc, dễ dàng nhớ những thông tin kết hợp với hình ảnh. Vì thế khi kết hợp hai loại hình sẽ giúp người đọc dễ dàng tiếp cận thông tin hơn. Báo mạng điện tử hiện nay đang phát triển theo hướng tiếp nhận tự nhiên của tư duy để thông tin trên báo mạng không bị lãng phí và phát huy tốt nhất khả năng lưu trữ của công chúng.
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện nâng cao khả năng cạnh tranh độc giả trên báo mạng điện tử.
Công chúng báo mạng điện tử là những người trẻ, 40 % trong số họ có độ tuổi từ 18-34. Đó là kết quả nghiên cứu của Hiệp hội báo chí Mỹ Newspaper Association of America đưa ra vào năm 2006. Họ là những người có nhu cầu thông tin cao, nhưng thời gian hạn hẹp. Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố truyền thông đa phương tiện hàm chứa lượng thông tin trực tiếp, cô đọng, là minh chứng thuyết phục nhất mà bài báo phản ánh. Đó chính là lượng thông tin sâu sắc, tinh túy, bản chất nhất của sự kiện. Vì thế, người đọc báo mạng điện tử có thể tiết kiệm thời gian đọc và ghi nhớ thông tin, đồng thời hoàn toàn tin tưởng vào thông tin mà nó mang lại. 
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố đa phương tiện trên báo mạng điện tử là một xu thế của báo chí thế giới.
Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố đa phương tiện là hình thức kết hợp của các yếu tố truyền thông như hình ảnh, âm thanh, chữ viết, làm mở rộng các giác quan tiếp nhận của công chúng. Ảnh báo chí đa phương tiện cho phép người xem nhìn, nghe, cảm nhận mọi nhịp điệu phong phú, đa dạng như cuộc sống chân thực trước mắt. Hơn thế, đó lại là những hình ảnh chốt nhất, âm thanh vang động nhất, cảm nhận sâu sắc hoặc lắng đọng, tinh tế nhất của sự kiện. Ảnh báo chí kết hợp với các yếu tố đa phương tiện trở thành một xu hướng mới, thu hút lượng công chúng đông đảo. Việc ứng dụng ảnh báo chí đa phương tiện nhanh nhạy, đi đầu xu hướng sẽ tạo nên tiếng nói và bản sắc riêng cho tờ báo.
L M Y
Tài liệu tham khảo:
1.     Nguyễn Thị Trường Giang (2005), Nhập môn báo mạng điện tử, Khoa Phát thanh Truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
2.     Tony Buzan, Sử dụng trí nhớ của bạn, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

3.        3.     Đặng Quốc Nam (2008), Khóa luận tốt nghiệp đại học “Phóng sự ảnh báo mạng điện tử trong xu thế đa phương tiện”

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2015

Ra mắt cuốn sách Quay phim điện ảnh & truyền hình của NSƯT Phạm Thanh Hà

Chủ nhật, 02 Tháng 8 2015 02:11 (GMT+7)
(TGĐA Online) - Nhằm giới thiệu những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong quay phim điện ảnh và truyền hình, nhà quay phim, nhà giáo – NSƯT Phạm Thanh Hà vừa cho ra mắt cuốn sách Quay phim điện ảnh và truyền hình dầy gần 400 trang. Đây thực sự là tài liệu tham khảo hữu ích cho các học viên chuyên ngành quay phim cũng như những ai quan tâm tới lĩnh vực này.
HOÀNG TUẤN


NSƯT Phạm Thanh Hà, sinh năm 1959, theo học quay phim tại trường Điện ảnh quốc tế VGIK (Liên Xô cũ) và từng là quay phim chính tại Hãng phim truyện I trước khi chuyển về trường Đại học Sân khấu & Điện ảnh Hà Nội làm công tác giảng dạy quay phim cũng như giữ chức trưởng khoa Nghệ thuật Nhiếp ảnh, Chủ nhiệm bộ môn Quay phim Truyền hình. Hơn 20 năm làm nghề, NSƯT Phạm Thanh Hà đã quay hàng chục bộ phim từ tài liệu, phim điện ảnh tới những bộ phim truyền hình như Platon - Thành, Đường mòn trên biển Đông (tài liệu nhựa); Hạnh phúc qua đám mây màu, Tiếng sáo ly hương, Lưới trời, Cầu ông Tượng, Sinh mệnh, Chớp mắt cùng số phận, Hoa đào, Mùi cỏ cháy… (Điện ảnh); Con sẽ là cô chủ, Trung du, Qúa khứ không êm dịu, Lời ru muộn màng, Hoàng hôn dang dở, Hoa muống biển, Giọt nước mắt giữa hai thế kỷ, Đôi vòng ngọc, Đứa con vùng đồi… (phim truyền hình). Tại giải Cánh diều vàng 2011, với những khuôn hình đầy sáng tạo trong bộ phim điện ảnh Mùi cỏ cháy, anh đã xuất sắc đoạt giải Quay phim xuất sắc nhất. Bộ phim điện ảnh mới nhất của anh là Trên đỉnh bình yên của đạo diễn Hữu Mười, sẽ ra mắt khán giả trong năm nay.

Hơn 20 năm cầm máy quay, những năm gần đây, NSƯT Phạm Thanh Hà bắt đầu nghĩ tới việc chia sẻ kinh nghiệm của mình cho những đồng nghiệp trẻ cũng như học viên quay phim thông qua những bài giảng, những bài viết chuyên môn đăng trên các tờ báo chuyên ngành. Cuốn sách Quay phim điện ảnh và truyền hình là tác phẩm lý luận đầu tiên của anh được xuất bản. NSƯT Phạm Thanh Hà chia sẻ: “Hiện nay, dù phương tiện ghi hình đã trở nên phong phú và tiện lợi. Cuộc Cách mạng số trong điện ảnh và truyền hình đem lại nhiều khả năng, phương án thể hiện ngôn ngữ, nhưng những nguyên lý kinh điển của tạo hình vẫn được bảo toàn trong sự phát triển của những nền công nghiệp hình ảnh”. Chính vì thế, cuốn sách Quay phim điện ảnh và truyền hìnhhướng đến những kiến thức, kỹ năng cơ bản trong quay phim điện ảnh và truyền hình; những kiến thức tạo hình căn bản, trong đó tập trung phân tích các kỹ năng hình ảnh và phương pháp biểu hiện ngôn ngữ điện ảnh truyền thống mang tính giáo khoa. Bên cạnh đó, cuốn sách còn phân tích những đặc thù, tiêu chí khác nhau của việc thu hình giữa điện ảnh và truyền hình; giới thiệu mở rộng, chuyên sâu về một số kỹ năng quay phim đặc biệt khác như quay nội cảnh, ngoại cảnh, quay chân dung, quay kỹ xảo, quay phối hợp nhiều máy…
Cuốn sách dày dặn gần 400 trang, 17 chương, do Trường ĐH Sân khấu & Điện ảnh kết hợp với nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản, được chia ra làm 3 phần gồm: Kỹ thuật quay phim điện ảnh và truyền hình; Những kiến thức tạo hình cơ bản; Mở rộng và chuyên sâu. Đây thực sự là tài liệu tham khảo hữu ích cho các học viên đã và đang học tập theo chuyên ngành quay phim, cũng như những ai quan tâm tới lĩnh vực này.

H T


Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

TRUYỆN KIỀU: TỪ VĂN HỌC TỚI ĐIỆN ẢNH - MỘT PHƯƠNG THỨC DIỄN DỊCH NGHỆ THUẬT ĐẦY THỬ THÁCH

  ( Truyện Kiều qua góc nhìn Điện ảnh )

Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn

1.  Đối với một tác phẩm kinh điển lớn của văn học dân tộc như Truyện Kiều, các phương thức diễn dịch nghệ thuật tất yếu sẽ phải nảy sinh (Âm nhạc, Hội họa, Điêu khắc, Sân khấu, Điện ảnh, v.v). Đó cũng là điều đã xảy ra đối với nhiều tác phẩm văn học lớn của thế giới (Các vở kịch của Shakespeare, các tiểu thuyết của Stendhal, Dostoievski, Liev Tolstoi, v.v.). Riêng việc "diễn dịch" bằng điện ảnh là gây nhiều tranh cãi và thu hút sự quan tâm lớn nhất, bởi quy mô thực hiện và sức ảnh hưởng sâu rộng trực tiếp đến xã hội, như nhà điện ảnh học nổi tiếng người Pháp G. Sadoul đã khẳng định: "Điện ảnh là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập nhất."1 Điện ảnh ngay từ thời thơ ấu đã mau chóng tìm đến văn học và kịch mục sân khấu, các nhà sản xuất phim đã đặt hàng các nhà văn lớn nhất của Pháp viết kịch bản phim hoặc mua bản quyền tác phẩm của họ. Điện ảnh kể từ khi xuất hiện phim nói tới nay đã để lại biết bao kinh nghiệm xương máu trong việc chuyển thể tác phẩm văn học; và một Giải thưởng danh giá đối với những người làm phim nhiều quốc gia như của Viện Hàn lâm Khoa học Điện ảnh Hoa Kỳ đã dành riêng một giải Oscar cho phim chuyển thể từ tác phẩm văn học gốc! (Ví dụ gần nhất: các phim The Social network -2011, The Descendants -2012, Argo -2013, 12 Years a slave -2014, The Imitation game -2015).
      Trở lại Truyện Kiều, ta thấy, những trăn trở về ý nghĩa đời người, các nhân vật, các tình huống số phận, các chi tiết đời sống, với thiên tài của Nguyễn Du đã hiện lên thực sinh động, rõ nét. Nhưng đặc trưng của thể loại truyện thơ Nôm, cùng thủ pháp ước lệ của mỹ học phương Đông cổ, đã là những thử thách không nhỏ và đồng thời cũng là khoảng trống lý tưởng cho các thế hệ đời sau sáng tạo, bù đắp, thông qua những sự "diễn dịch"nghệ thuật quanh Truyện Kiều.
     Xin điểm qua các sự "diễn dịch" này - cả nghệ thuật bác học lẫn nghệ thuật dân gian. Chúng rất có ý nghĩa đối với điện ảnh với tư cách là một công nghệ & nghệ thuật tổng hợp.
     Trong âm nhạc, từ lâu nay, hát ả đào đã mượn những câu thơ Kiều để diễn tả nhân tình thế thái. Thời hiện đại, Phạm Duy đã dành nhiều sức lực làm Kiều Ca, minh họa Truyện Kiều bằng âm nhạc. (Nhà sử học Dương Trung Quốc đã tổ chức một diễn đàn cho trí thức Hà Nội nghe Phạm Duy nói, hát Kiều Ca). Nhạc sĩ Vũ Ân Khoa cũng viết về Kiều Ca. Cách đây không lâu, nhạc sĩ Vũ Đình Ân ở Tp. HCM đã xây dựng bản giao hưởng hợp xướng lớn về Truyện Kiều... Chị Nguyễn Hồng Oanh, người Hà Tĩnh, hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Tp. HCM có thể ngâm một câu Kiều ở hàng chục kiểu khác nhau: hát dặm, hát quan họ, hát chèo, hát cải lương, hát trống quân... Nhạc sĩ An Thuyên đang gấp rút dàn dựng vở nhạc kịch 4 hồi dựa theo Truyện Kiều để kịp trình diễn vào Lễ Kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, chẳng may ông qua đời, công trình dang dở sẽ do con cháu và học trò ông tiếp tục hoàn thiện...
     Truyện Kiều xuất hiện với mức độ đậm đặc trong hội họa, điêu khắc (Tranh tượng nghệ thuật, tranh tượng mỹ nghệ, truyện tranh, tranh dân gian...) - đáng kể nhất là trong tranh của những danh họa hàng đầu Việt Nam như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ, Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung, v.v, cũng như trong tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ... Cô giáo Vũ Như Quân dạy văn ở Đông Mỹ- Đông Hưng- Thái Bình đã vẽ hàng trăm bức tranh minh họa Truyện Kiều cho các bài giảng của mình.
     Truyện Kiều được tồn tại nhiều trên sân khấu, như "Trò Kiều" (dân gian), "Kim Vân Kiều", "Kiều-Hoạn Thư", "Thúy Kiều" (cải lương), "Tú Bà đánh Kiều" (chèo), "Kiệu Hoa" (kịch thơ), "Ngàn Thu Vọng Mãi" (dân ca bài chòi khu 5), v.v. Đoàn kịch thể nghiệm của nghệ sĩ Lan Hương (Nhà hát Tuổi trẻ) đã dựng tiết mục dựa theo Truyện Kiều, từng đem diễn nhiều nơi. Gần đây nhất, Hội Kiều học Việt Nam đang tiến hành dàn dựng một vở kịch mang tên "Hoạn Thư ghen"... Không ít nghệ sĩ quen thuộc trong lòng công chúng thường đóng vai Kiều trên sân khấu: Kim Xuân, Bạch Tuyết, Lệ  Thi, Như Quỳnh...
2.  Trở lại việc chuyển thể điện ảnh tác phẩm văn học Truyện Kiều. Truyện Kiều có nhiều chất điện ảnh không? Và cần phải nói tới một điều dường như khá hóc búa trong việc chuyển thể, khiến nhiều người lo lắng hộ người làm phim: cái hay nhất của Truyện Kiều chính là những câu thơ, gửi gắm trong một cốt truyện đi mượn được xử dụng một cách đầy sáng tạo phù hợp với thể loại truyện thơ Nôm dân tộc. Nhưng để "hiện thực hóa" Truyện Kiều bằng phim ảnh thì phải miêu tả cụ thể các tình tiết & chi tiết đời sống, mà nếu không cẩn thận sẽ rơi vào cái bẫy minh họa cho cốt truyện tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân! Nhưng cái bẫy này thực chất là gì, và làm sao thoát khỏi nó?
     Trước hết, người làm phim có một cơ sở vững chắc xuất phát từ chính nội dung - tư tưởng Truyện Kiều, như nhận định của một nhà nghiên cứu: "Do cảm quan nhân đạo và hiện thực của Nguyễn Du khác với Thanh Tâm Tài Nhân nên các nhân vật trong Truyện Kiều đã được xây dựng trong những quan hệ thẩm mỹ mới như xung đột văn hóa với tha hóa, giữa kết tinh phẩm chất giống người cùng khát vọng tự do nhân phẩm của nó với các thế lực xã hội tàn bạo, sức tha hóa của đồng tiền...".2 Sau nữa, theo không ít nhà nghiên cứu, triết lý Truyện Kiều chủ yếu nằm ở hai chữ Tài - Sắc và Tài - Tình, và họ đều thống nhất cho rằng, câu chuyện Kiều - Kim thực ra nằm ở chữ Tình: "Lại mang lấy một chữ tình/ Khư khư mình buộc lấy mình vào trong". Sự phong phú uyển chuyển của tâm lý nhân vật Kiều - có gốc gác từ chữ Tình, bị ảnh hưởng sâu nặng bởi chữ Tình, theo cách nói của ông Trần Đình Sử là "sự vận động của tấm lòng"3 qua các sự kiện, tình huống bi kịch trong Truyện Kiều: "Tấm lòng Kiều được thể hiện trong một giới hạn rộng rãi nhất, từ những ý nghĩ cao cả nhất tới những suy tư trần tục nhất, chỉ có ý nghĩa riêng đối với tình cảm của nàng"4, chính nó đã quy định, đã dẫn dắt số phận của nàng- mà điều này lại rất gần gũi với điện ảnh tâm lý hiện đại. Điều đó chúng ta hầu như không thể tìm thấy ở nhân vật Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, một cô gái nhiều lời nhưng ít suy tư (tính toán thì có), đời sống tâm hồn chủ yếu bộc lộ qua việc giãi bày đạo lý và kể lể những suy tính, quan sát của mình! Ở Truyện Kiều, hầu hết các nhân vật khác cũng đều có cá tính rõ rệt, có đời sống nội tâm khá phức tạp, thậm chí "đa nhân cách". Cũng ông Trần Đình Sử, trong một chuyên luận ứng dụng thi pháp học còn nhấn mạnh: "Mức độ cá thể hóa, cá tính hóa cao nhất được thể hiện ở Truyện Kiều... nhân vật Truyện Kiều đã thoát khỏi nhân vật mang nghĩa lý để biểu hiện con người tâm lý. Tâm lý đây là những tình cảm đối nghịch, lưỡng tính, vừa ứng xử theo hoàn cảnh, vừa bộc lộ con người không đồng nhất với nó, không đồng nhất với chính mình..., là dục vọng, ham muốn, cảm giác".5  Và đó cũng chính là một đặc trưng tiêu biểu của nhân vật điện ảnh thế kỷ XX, XXI!
     Theo nhà ký hiệu học lớn người Nga Iu. Lotman, "cấu trúc đa giọng điệu phức tạp của những cái nhìn", "sự thay thế các điểm nhìn... thủ pháp tổ chức những cái nhìn mà bản chất của nó có thể được minh chứng rõ hơn cả bởi nghệ thuật điện ảnh" sẽ khiến tác phẩm văn học gần với "cấu trúc điện ảnh rõ rệt... trong đó các phương tiện ngôn ngữ thể hiện cái nhìn của nhân vật liên kết với những cái nhìn của tác giả và các nhân vật khác".6 (Người viết bài này lưu ý). Chúng ta hoàn toàn có thể dùng những nhận định trên của Lotman khi phân tích văn xuôi giai đoạn sau của Pushkin để nói về Truyện Kiều, đặc biệt để phân tích nhân vật Kiều! ("Cái nhìn" ở đây cần hiểu rộng là sự đánh giá, sự bày tỏ thái độ, tình cảm... của nhân vật này với nhân vật khác, của bản thân nhân vật tự bộc lộ, của chính tác giả với nhân vật và thậm chí hóa thân vào nhân vật- với tư cách là "tâm lý hành động", một khái niệm của nghệ thuật trình diễn- khiến nhân vật vừa có chiều dày nội tâm, vừa có tác dụng tạo ra những tình tiết xung đột có tính "tạo hình" giúp thúc đẩy một cách tự nhiên, hấp dẫn sự phát triển câu chuyện phim khi chuyển thể điện ảnh. Có rất nhiều đoạn trong Truyện Kiều có thể làm sáng tỏ điều này, tiêu biểu là đoạn: sau khi Kiều đã hoàn thành việc bán mình, than khóc một mình bên ngọn đèn khuya, rồi sau đó nàng trao duyên cho em). Chính đặc điểm mang yếu tố của "cấu trúc điện ảnh" gắn chặt với khả năng thể hiện tâm lý độc đáo này - như một phẩm chất nghệ thuật ưu việt khiến Truyện Kiều khác xa với Kim Vân Kiều truyện của tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc thường tả nhân vật theo lối "bạch miêu" (nghĩa là sự tả thực rất cụ thể, chi tiết, thậm chí tự nhiên chủ nghĩa, lại hoàn toàn do tác giả nhìn từ bên ngoài sự kiện và nhân vật).
      Từ những điểm nhìn phong phú (và luôn có sự chuyển dịch điểm nhìn), cộng với những xót xa trăn trở của người "trải qua một cuộc bể dâu", Nguyễn Du đã phần nào bước qua khỏi quy phạm mỹ học của văn chương trung đại, đã tránh được sự miêu tả nhân vật theo khuôn mẫu để dựng lên được nhiều nhân vật góc cạnh, có bề dày tâm lý, mang sức nặng của hiện thực (hiện thực nông thôn và thành thị Việt Nam thời trung đại). Nhiều nhà nghiên cứu Truyện Kiều đã dày công viết về điều này! Như ông Lê Đình Kỵ, trong một công trình lớn về chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du7 đã khảo cứu, phân tích khá kỹ lưỡng các nhân vật trong Truyện Kiều. Như ông Trần Nho Thìn đã dẫn chứng một tình tiết giàu tâm lý và đậm chất điện ảnh ở Truyện Kiều: Mã Giám Sinh luôn tính đến lời lãi khi mua được nàng Kiều xinh đẹp, muốn giữ trinh tiết nàng để bán lấy hòa vốn, song trước sắc đẹp của nàng, hắn không thể không rung động, và muốn chiếm đoạt, hưởng thụ sắc đẹp ấy! Đó là chỗ khác biệt so với Kim Vân Kiều truyện: "Mã Giám Sinh quyết định ăn nằm với Kiều chỉ vì tính toán rất tỉnh táo, sợ bị lộ âm mưu mua Kiều để buôn bán, chứ không vì cảm hứng trước sắc đẹp của nàng". 8 V.v.
     Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi khảo sát Truyện Kiều theo lý thuyết phong cách học tác giả đã nói về “con người cô độc”, với “phương pháp phân tích tâm lý táo bạo và tàn nhẫn” (một đặc điểm quan trọng của tiểu thuyết và điện ảnh hiện đại): “mỗi người như thế vừa là họ vừa không phải là họ… Cuộc phiêu lưu của hành động chấm dứt để nhường chỗ cho cái thế giới biến ảo, vô thường của muôn vàn tâm trạng… khi con người cô độc xuất hiện, lập tức có sự đối lập giữa cái thời gian khách quan của sự diễn biến các sự vật, với cái thời gian nội tâm chủ quan trong lòng từng người”, và, “Cái thời gian nội tâm ấy không được đo bằng kim đồng hồ, mà bằng những xúc cảm của con tim. Nó dài hay ngắn là tuỳ theo những xúc cảm này”.9 Phát hiện trên của ông Phan Ngọc khiến ta không thể không liên hệ đến một luận điểm, cũng của Iu. Lotman khi bàn về thời gian nghệ thuật của bộ phim kinh điển "Khi đàn sếu bay qua" dưới con mắt ký hiệu học và mỹ học điện ảnh: "Cái khả năng thích nghi với sự không phù hợp, với sự ép lại hay phình nở thời gian một cách tùy tiện, vốn là điều kiện xuất hiện của thời gian nghệ thuật và vốn không thể có được trong kịch thì lại đặc biệt có ý nghĩa trong điện ảnh... Mâu thuẫn giữa cảm giác hiện thực mà chúng ta cảm thấy trước màn ảnh và việc chúng ta biết hành động đó không thực, đã đem lại một định hướng mới cho sự căng thẳng nghệ thuật... Hai cấp độ thời gian của bộ phim, sự pha trộn cái thực tại với cái phi thực tại gây ra những hiệu quả bổ sung trên mặt ngữ nghĩa"10. Xin lấy một đoạn Truyện Kiều để làm sáng tỏ luận điểm trên: Từ câu 1219: "Những nghe nói đã thẹn thùng", tới câu 1274: "Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi". Trong "trường đoạn điện ảnh" (séquant) này, sau khi Tú Bà lựa lời khuyên bảo và dạy cho Kiều "Vỡ lòng học lấy những nghề nghiệp hay", Kiều đã bị ném phũ phàng vào những "Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm". Bên cạnh những phản ứng tâm lý tuyệt vọng ("thẹn thùng", "xót mình", "thương mình xót xa", "bướm chán ong chường", "vui gượng", "mặt dạn mày dày", "ngẩn ngơ trăm mối"...) khi trôi qua các khoảng thời gian mặc định và "tùy tiện" ("Khi tỉnh rượu lúc tàn canh", "Giấc hương quan luống lần mơ canh dài", "Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"...), Kiều còn thường sống trong "sự pha trộn cái thực tại với cái phi thực tại" ở "hai cấp độ thời gian": "Khi sao phong gấm rủ là/ Giờ sao tan tác như hoa giữa đường"... Và giữa khi "Thờ ơ gió trúc mưa mai" đương dày vò thân xác mình, Kiều đã chìm trong một thế giới riêng thắm thiết- tuy "phi thực tại" song lại là "tri âm" thực sự, là lẽ tồn tại của nàng: đó là hình bóng cha mẹ tuổi xế chiều nơi xa xôi ngàn dặm, là hai em tình sâu ruột thịt, là người yêu dấu đã cùng nàng nguyện lời thề ước trăm năm; để rồi, như giao cảm với người nào đó đương "Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn", Kiều đã thốt lên đay nghiến cho số kiếp mình: "Đã đày vào kiếp phong trần/ Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!" Trước đó, Kiều đã tưởng tượng ra cảnh chàng Kim trở về nơi cũ thì "Cành xuân đã bẻ cho người trao tay"... Những cảnh huống của hiện tại pha trộn với cảnh trí ở "cấp độ thời gian" khác, trong trạng thái tâm lý đặc biệt của "thời gian nội tâm", rất dễ dẫn đến khả năng "sự ép lại hay phình nở thời gian một cách tùy tiện" mà Lotman nói tới. Và ta hãy hình dung cảnh phim: trong khi Kiều bị dày vò thân xác một cách đau đớn tủi nhục, nàng cứ "Mặc người mưa Sở mây Tần" để nhớ về người yêu trong mộng, thậm chí ở đó còn diễn ra cả hành động là kết quả của sự hối hận muộn mằn: "Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung" (câu 791-792). Nếu được thể hiện một cách công phu, đó sẽ là trường đoạn phim gây ấn tượng mạnh cùng bao cảm nghĩ sâu xa về tình yêu trong sạch và thân phận con người lương thiện bị chà đạp! Truyện Kiều còn có biết bao "trường đoạn" như vậy có thể góp phần chứng thực thêm cho luận điểm trên của Lotman. Và như thế, "nhờ máy quay và phim nhựa, bộ phim sẽ cố định thời hiện tại và hành động thực, trở nên câu chuyện kể điện ảnh về cái mà ta không thể thấy, về cái ẩn nấp ở đáy ký ức và lương tâm".11
       Chỉ vài điểm sơ lược nêu trên cũng đủ khiến "cái bẫy cốt truyện" đã nói không còn là một thử thách đáng kể trong việc chuyển thể điện ảnh. (Dĩ nhiên là với điều kiện phim không đi theo vết mòn lâu nay là cảnh nuốt mất người, nhân vật biến thành loa phát ngôn cho tác giả - thực ra là cái bệnh "Không có nhân vật: Vấn nạn của điện ảnh Việt Nam" mà một nhà phê bình điện ảnh chuyên nghiệp từng cảnh báo!12). Thử thách lớn nhất, chung quy lại chính là vấn đề "giải mã" Truyện Kiều khi "điện ảnh hóa" tác phẩm văn học, và đặc biệt dưới con mắt của người xem hiện đại!
3.   Tới đây, mới có thể đi vào chuyện "bếp núc" của việc chuyển thể. Nếu như Phim KIỀU được thực hiện, việc cần làm đầu tiên là nhất thiết phải tạo ra môi trường sống chân thực cho nhân vật, xoay quanh sinh hoạt văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt xưa; hay nói cách khác là hiện thực hóa, điện ảnh hóa cái "không gian nghệ thuật" và "thời gian nghệ thuật" của Truyện Kiều (những khái niệm của thi pháp học hiện đại) bằng hình ảnh chuyển động và âm thanh chân thực của đời sống. Điều này dẫn tới việc đi tìm bối cảnh và thiết kế bối cảnh cho phim để làm sao tái hiện được cuộc sống người Việt trong quá khứ - dĩ nhiên là quá khứ thời trung đại, có liên quan đến thời Lê - Trịnh mà Nguyễn Du sống. Nếu vậy, các sinh hoạt dân dã như chùa quê, hát xẩm, hát ả đào, hoạt động lầu xanh, v.v. cần được thể hiện một cách phù hợp; cùng các đạo cụ của phim được thiết kế để tạo ra đời sống thuần Việt của nhân vật và làm nổi bật bản sắc của tính cách, số phận nhân vật. Các nhân vật nam nữ trong Phim KIỀU sẽ ăn vận theo kiểu nào? Kiều có phải khăn áo thướt tha kiểu đài các phong kiến như trong các vở ca kịch dân tộc, trong phim "Kim Vân  Kiều" ra đời năm 1924, hay trong hầu hết các tranh vẽ xưa nay minh họa cho Truyện Kiều? Một dạo, trong đời sống thời trang từng diễn ra cuộc tranh luận chưa ngã ngũ về cách ăn mặc của nhân vật Kiều ra sao khi lên sân khấu, màn ảnh. Các nhà thiết kế đã từng thiết kế trang phục cho Thúy Kiều, Thúy Vân cùng những nhân vật khác của Truyện Kiều trên sân khấu (tiêu biểu là nhà thiết kế Sĩ Hoàng) cũng đang háo hức được thiết kế cho nhân vật Truyện Kiều của màn ảnh lớn, nhỏ...
     Nhưng, điều quan trọng nhất là việc tái hiện/ thể hiện các nhân vật bằng hình tượng điện ảnh, thông qua ngôn ngữ điện ảnh, đồng thời nắm bắt được cái chất thơ đặc biệt của Truyện Kiều trong từng tâm trạng, từng cảnh ngộ để thổi vào cảnh phim- chứ không phải là sự minh họa bằng hình ảnh & âm thanh tác phẩm Truyện Kiều! Phim KIỀU bắt buộc phải bồi đắp da thịt, làm đầy đặn cuộc sống cho các nhân vật mà Nguyễn Du tả bằng thơ - khi thì sâu sắc tỉ mỷ như một bậc thầy tâm lý của văn học hiện thực phương Tây, lúc thì bằng biểu tượng, tượng trưng, điển cố đặc thù của văn học phương Đông- và đôi khi chỉ lướt qua. Bên cạnh việc làm "phổng phao" những tình tiết và nhân vật lướt qua đó, cần tạo nên một số nhân vật mới để làm sáng tỏ thêm tính cách cùng những mối quan hệ của các nhân vật sẵn có trong hệ thống sự kiện của tác phẩm truyện thơ. Dĩ nhiên, mọi sáng tạo đều phải tôn trọng tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du, và tập trung khắc họa nhân vật Kiều với vẻ đẹp thuần Việt, với tính cách dám yêu, dám sống, dám hy sinh cho tình yêu. 
      Tuy nhiên, để làm thấu đáo được điều này, Phim KIỀU cần trả lời được các câu hỏi và giải quyết thỏa đáng những vấn đề về các mối quan hệ nhân vật chủ chốt:
Kiều và mối quan hệ tay ba Kiều -Vân - Kim
     Trong "bộ ba" này, Kim Trọng là nhân vật có nhiều nét ước lệ hơn cả, lại bị "bỏ rơi" rất dài mà người xem phim không thể chờ đợi lâu đến thế, buộc người làm phim phải dày công bồi đắp! Thúy Vân của Nguyễn Du trong cảm nhận của nhiều người hôm nay có những điểm khác lạ, thú vị. (Như trong thơ Trương Nam Hương, v.v.). Và những người làm phim cần đặc biệt chú ý đến cách nhận định, đánh giá "Nàng Kiều qua con mắt một người phương Tây" (Hữu Ngọc): "Chính cái yếu đuối của Kiều, cái nhập nhằng đức hạnh - tình cảm khiến cho nhân vật Kiều thật hơn, hiện đại hơn, có bề sâu tâm lý hơn các nhân vật thiện - ác, trung - nịnh rõ ràng trong văn học dân gian."13 Nhà văn hóa Hữu Ngọc đã vô tình đưa ra một "tiêu chí nghệ thuật" (tạm gọi như vậy) cho điện ảnh (và không chỉ điện ảnh) trong việc khai thác nhân vật nàng Kiều cùng các nhân vật khác của Truyện Kiều cho khán giả hôm nay!
Kiều -Tú Bà - Sở Khanh
     Tú Bà là một nhân vật trong Kim Vân Kiều truyện, song cũng là nguyên mẫu (prototif) mà Nguyễn Du đã gặp đâu đó ở Việt Nam (và ở cả Trung Quốc nữa) để đưa vào Truyện Kiều. Kiều sa vào cạm bẫy của Tú Bà (và Mã Giám Sinh), với tài năng, phẩm hạnh của mình, Kiều có dễ dàng chấp nhận buông xuôi như trong văn học?
      Sở khanh được Nguyễn Du khắc họa chỉ vài nét sinh động, và đã trở thành danh từ chỉ sự "lừa tình" trong dân gian. Còn Sở Khanh trong mắt người xem hôm nay? (Xin nhớ lại Sở Khanh trong hình dung của một số nhân vật nổi tiếng: họa sĩ Trịnh Cung, nhà thơ Trần Đăng Khoa, một hoa hậu…).
Kiều - Thúc sinh - Hoạn thư
     Nguyễn Du đã dành cho Thúc Sinh những tình cảm thắm thiết nhất từ Thúy Kiều. Nhưng có phải Thúc Sinh là người được Kiều yêu thương hơn cả Kim Trọng, và có đáng được như thế? Thực chất nhân cách của Thúc Sinh? Đâu là động cơ tâm lý thôi thúc hành động của Hoạn Thư? Mối quan hệ Kiều -Thúc - Hoạn tạo nên những diễn biến tâm lý rất sâu sắc và vô cùng kịch tính, làm phim sẽ có sức hấp dẫn mạnh. Và Hoạn Thư, trong thời nay, cũng cần được nhìn nhận bằng con mắt Phật học: "Trong cô cũng có lòng từ bi...Từ Hoạn Thư, chúng ta cũng học được bài học nhân ái chứ cô không phải là người bỏ đi...Tất cả chúng ta, người nào cũng có những hạt giống tốt và xấu", cũng như "Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong lòng... đều có chất liệu đam mê và nhu nhược".14 "Phương pháp thiền quán" này thực ra cũng chứa đựng cả quan niệm và thủ pháp xây dựng nhân vật của điện ảnh hiện đại!
Kiều - Từ Hải
     Trước hết, cần nhắc tới một nhận xét của nhà nghiên cứu văn học người Nga N.I. Niculin: "Trong cuốn truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Từ Hải chỉ là một nhân vật phụ, xuất hiện thoáng qua trong một đoạn truyện, một gã anh chị phóng đãng sau khi đã thử nếm qua đủ các nghề nghiệp, cuối cùng xoay ra nghề lục lâm; trong thiên trường ca của Nguyễn Du thì Từ Hải lại hiện ra trước mắt người đọc như một dũng tướng ngang tàng, một vị anh hùng bảo vệ chính nghĩa." (Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc)15
     Motif Anh hùng + Thuyền quyên vốn quen thuộc trong điện ảnh thế giới, khi vào Phim KIỀU sẽ vừa trung thành với tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, vừa thỏa mãn được tâm lý mong chờ của người xem đông đảo sau bao nỗi lo lắng và đau đớn cùng Kiều, tạo ra sức cuốn hút lớn của phim. Vấn đề lớn nhất trong việc xử lý mối quan hệ này, là lý giải tâm lý của Kiều khi thuyết phục Từ Hải ra hàng triều đình, để người xem không coi thường hạ thấp Kiều, và thể tất nhân tình được cho Kiều.
Trở lại mối quan hệ tay ba Kiều -Vân - Kim. Cuộc tái hợp Kim - Kiều.
      Nhà thơ Xuân Diệu đã coi cuộc tái hợp Kiều - Kim là "Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều", là "tiếng thét tố cáo xã hội".16 Có thực như vậy không? Đã có không ít cuộc tranh luận về cái kết cục gọi là đoàn viên vui vẻ này. Có người phê phán nặng nề, coi là gượng gạo, giả tạo, không cần thiết, nhưng có người lại coi là một mẫu mực của nghệ thuật! Phim KIỀU cần miêu tả, xử lý cái kết nan giải này như thế nào? Đó cũng là điều người xem phim chờ đợi.
4.  Giải quyết một cách thấu đáo một số vấn đề đã gợi ra ở trên, kết hợp với việc xử dụng nhuần nhị những câu thơ Kiều "như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy"17 vào ngôn ngữ đối thoại - độc thoại "luôn có sự chuyển dịch điểm nhìn" của điện ảnh, chỉ khi đó, người làm phim mới có thể yên tâm rằng: bộ Phim KIỀU - nếu hội tụ đủ nhiều yếu tố khác nữa mới có thể ra đời - tệ nhất cũng sẽ không trở thành một phiên bản Nghe-Nhìn nhợt nhạt cho Kim Vân Kiều truyện, thậm chí quảng bá cho văn hóa & lịch sử Trung Quốc- mà khởi thủy vốn chỉ là cái cớ ban đầu, là cái vỏ, là nguyên liệu thô cho đại thi hào Nguyễn Du sáng tạo nên "Đoạn trường tân thanh" bất hủ.
     Những suy ngẫm và kiến giải trên đây là của một trong những người làm phim Việt Nam  từng khao khát, ấp ủ đưa Truyện Kiều lên màn ảnh từ nhiều năm nay. Nếu như thế hệ đạo diễn của chúng tôi chưa thực hiện được mơ ước của mình, thì đây cũng là chút gợi ý giúp cho những thế hệ đạo diễn sau bớt lúng túng khi có điều kiện thực hiện bộ Phim KIỀU, đáp ứng được niềm mong mỏi của bao tầng lớp khán giả Việt Nam trong nước và nước ngoài. Ít nhất, trong hiện tại, hy vọng là một đóng góp nhỏ bé của chúng tôi dưới góc độ Điện ảnh học (và lĩnh vực sản xuất phim) trong sự nghiệp chung tìm hiểu, nghiên cứu, khai thác, quảng bá Truyện Kiều.
N A T
___________________
1. Georges Sadoul: Lịch sử điện ảnh thế giới (Nhiều người dịch). Nxb Ngoại văn & Trường đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, HN 1987, tr. 7
2. Hoàng Trọng Quyền: Nguyễn Du và Đỗ Phủ- những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN 2012, tr.73
3,4. Trần Đình Sử: Thi pháp Truyện Kiều. Nxb Giáo dục, HN 2012, tr.131
5. Trần Đình Sử: Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, HN 2005, tr. 360, 362  
6. I. M. Lotman: Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, HN 2004, tr.470, 472
7. Lê Đình Kỵ: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Nxb KHXH, HN 1971
8. Trần Nho Thìn: Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa. Nxb Giáo dục, HN 2008, tr. 431
9. Phan Ngọc: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Nxb Thanh niên, HN 2001, tr. 122-123, 172
10, 11. I. M. Lotman: Ký hiệu học và mỹ học Điện ảnh.(Bạch Bích dịch). Viện Nghệ thuật & Lưu trữ Điện ảnh Việt Nam XB, HN 1997, trg. 640 – 644
12. Tô Hoàng: Đường xa gánh nặng. Nxb Văn hóa-Văn nghệ, Tp. HCM 2014, tr.16
13. Nguyễn Xuân Lam (Sưu tầm, tuyển chọn): Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ XXI. Nxb Giáo dục, HN 2009, tr. 714
14. Thích Nhất Hạnh: Thả một bè lau. Nxb Thời đại, HN 2011, tr.209 -211
15, 16, 17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu): Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, HN 1999, tr.1011, 607, 168.
 (Tham luận Hội thảo Quốc tế : "Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá trị xuyên thời đại" do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 8-8/2015 )