Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2015

QUAY PHIM CHÂN DUNG


  NSƯT Phạm Thanh Hà
  (Trích từ cuốn sách Quay phim Điện ảnh và Truyền hình)

   Nhân vật trong tác phẩm trong tác phẩm phim tài liệu là người thật việc thật được thể hiện với góc nhìn của các tác giả và các cảnh quay thể hiện lại những lát cắt tiêu biểu từ cuộc sống của con người đó. Đối với phim truyện, hình tượng nhân vật được truyền tải thông qua diễn xuất của diễn viên. Việc chọn diễn viên thông qua cảm nhận của đạo diễn về ngoại hình của nhân vật tương lai trong tác phẩm. Vẻ bề ngoài của diễn viên, (hoặc của nhân vật phim tài liệu), đặc điểm di chuyển,cử chỉ, điệu bộ,mối liên hệ của hình thể với phông cảnh,...vv đóng vai trò rất lớn. Hình tượng nhân vật được hợp thành từ loạt các chân dung của các cảnh quay. Trong đó nội dung - dựng bố cục có thể được xây dựng từ đa số các cảnh được quay tĩnh, cũng như được liên kết bởi các dàn cảnh động, bởi một cảnh quay động với cỡ cảnh khác nhau và ánh sáng khác nhau. 
   Khi cần xây dựng một số bố cục chân dung của một nhân vật,trong các tình huống khác nhau từ cuộc sống, đòi hỏi nhà quay phim linh hoạt với toàn bộ tay nghề của mình để quay nhân vật một cách đa dạng, biểu cảm, và nhất định phải nhận ra được những đặc thù của nhân vật đó. Một số đạo diễn, nhà quay phim mặc định rằng, ghi hình chân dung, nhất thiết phải sử dụng ống kính tele hay ống kính norman, nhất thiết phải sử dụng các kính dịu và sa cho ống kính, hình ảnh phải luôn sáng sủa…Chắc chắn đây là quan niệm máy móc. Đã đành các cận cảnh được quay bằng ống kính tiêu cự trung bình và tiêu cự dài, thu được hình khối mềm mại hơn và phông mờ hơn nhưng hoàn toàn không chỉ như vậy. Nhân vật trong phim có thể chính diện, phản diện, lúc vui tươi và khi đau khổ. Bởi vậy sử dụng đúng ống kính góc rộng khi quay cận cảnh nhân vật đôi khi lại đạt hiệu quả hơn mức yêu cầu. Khi quay với ống kính tiêu cự ngắn, cần cực kỳ cẩn thận sử dụng góc độ cao và góc độ thấp - điều đó nhiều khi dẫn đến biến dạng sai lệch tỷ lệ khuôn mặt. Tuy nhiên nhà quay phim Xô Viết ( Liên Xô cũ ) C. Urusevxky đã sử dụng ống kính rất rộng với thủ pháp bố cục động khiến bộ phim Đàn Sếu bay mang một phong cách tạo hình độc đáo.
Cảnh phim Đàn sếu bay- Quay phim Uruxevxki
   Mỗi cỡ cảnh biểu hiện một ngôn ngữ cũng như là công cụ để các nhà làm phim thể hiện. Nhân vật của chúng ta có lúc trong toàn cảnh giữa các nhân vật khác, có khi lẻ loi cô đơn thấp thoáng trong hàng cây, nhân vật có thể được quay cỡ trung cảnh bên ô cửa sổ. Khi quay các nhân vật ở cỡ trung cảnh cần phải hướng đến để sao cho hình dáng của những người, các đồ vật trong cảnh trí thuộc lớp hậu cảnh kém sắc nét hơn so với các nhân vật chính ở lớp cảnh trước.
    Gương mặt có thể ở trong bóng tối, hẳn những người xem phim Đường sơn đại địa chấn- Đạo diễn Phùng Tiểu Cương,chưa quên cảnh em gái tronglòng đất nghe tiếng người mẹ nói với nhân viên cứu hộ chọn đứa em trai để cứu.Khuôn mặt em trong ánh sáng yếu ớt nhưng đôi mắt hoen ướt đã nói lên nỗi tủi thân và tuyệt vọng. Cận cảnh cho thấy  chúng ta đang bên cạnh nhân vật và điều đó không gây cho nhân vật cảm giác xa rời. Vai trò của mắt nhìn rất lớn trong cận cảnh, đúng với nghĩa cửa sổ của tâm hồn. Đôi mắt cho khán giả đọc được cảm xúc nhân vật thông qua diễn xuất diễn viên và khi nhập vào được cảm xúc ấy khán giả sẽ đồng cảm, xao lòng cùng nhân vật. Đôi mắt còn là “ đường dẫn” cho phép khán giả nhìn cái nhìn của nhân vật với góc nhìn chủ quan. Thông thường không gian thường rộng mở hơn theo hướng nhìn nhân vật. Nhưng trong những trường hợp muốn thể hiện trạng thái không bình thường của nhân vật, hoặc do phong cách của đạo diễn khỏng trống sau lưng lại lớn hơn khoảng trống theo hướng nhìn.
Cảnh phim 2046- Đạo diễn Vương Gia Vệ.
    Cần nhớ rằng, khi quay cận cảnh nếu nếu nhân vật quá sát phông đồ vật sẽ phân tán sự chú ý của khán giả và ảnh hưởng đến việc đặt các thiết bị chiếu sáng ngược và chếch ngược cũng như gây ra bóng khó chịu của các đèn chiếu sáng thuận và bên. Ngoài ra, phông cũng cần phải chiếu sáng ít tương phản hơn so với khuôn mặt người được quay chân dung. Nói cách khác, sự chuyển tông giữa phần  sáng và phần tối trên phông cần phải mềm hơn, so với tương phản sáng tối trên gương mặt. Chỉ khi đó mới xuất hiện cảm nhận về sự hiện của không khí xung quanh.
      Cả phim truyện và phim tài liệu hay chương trình truyền hình thể hiện con người trong các trạng thái khác nhau và trong các tình huống thay đổi thường xuyên. Nhà quay phim cần đảm bảo sự kết hợp hài hòa của phông và nhân vật. Nhân vật không cần phải khác biệt trong bối cảnh ( cũng như với phông), trừ các trường hợp, điều đó được cân nhắc bằng giải pháp thể hiện. Sử dụng khẩu độ f = 1:2; f = 1:2,8 có thể thu được kết quả tốt cả ở cận cảnh và trung cảnh.
     Nếu như hội họa thể hiện chân dung nhân vật trong một khoảnh khắc thì điện ảnh và truyền hình  sử dụng sự phản ánh hình mẫu người đương thời với những bố cục luôn thay đổi, chiếu sáng đa dạng cùng với ưu thế động của máy quay.
     Ghi hình chân dung khi làm phóng sự người quay phim phải nắm bắt được những sự kiện phát triển theo không gian và thời gian. Dòng sự kiện không thể giữ, dừng và lặp lại nên người quay phải ứng biến nhanh cùng những chiêu bắn tỉa thiện nghệ. Diễn biến nhanh chóng của sự kiện trong khoảng thời gian hạn chế ngặt ngheo cần phải được nhà quay phim ghi lại các cảnh trung thực về bản chất và truyền cảm của khuôn hình.
   Khi quay phỏng vấn, nhân vật trong cảnh quay cần phải làm việc tuyệt đối tự nhiên như không có sự hiện diện của máy quay.Trong các trường hợp người cảm thấy không cởi mở, có ý thức đối phó với máy quay, cần phải áp dụng hoặc là phương pháp "giấu máy" hoặc là phương pháp "quen máy". Những khi đó nhân vật hoặc  không biết sự hiện diện của máy quay, hoặc là đã quen thuộc, không chú ý đến máy quay nữa. Cận cảnh trong tác phẩm tài liệu không thể che dấu đằng sau những lời nói sáo rỗng, với bài trả lời phỏng vấn  được đánh máy trước. Con mắt của người được phỏng vấn sẽ bộc lộ sự chân thành hay ngụy tạo của cảnh quay.  
     Dù ghi hình chân dung phóng sự cũng phải tuân thủ các quy luật bố cục  hình ảnh như sự cân bằng của cảnh, điểm nhấn chính xác  theo tư duy bố cục, không để các chi tiết thừa làm phân tán sự chú ý của khán giả.
      Các đạo diễn hay yêu cầu ghi hình “chặt” hơn, và “chặt” hơn nữa, khi không hiểu rằng cỡ cảnh quá hẹp chỉ làm hại nhân vật của họ, nhất là khi ghi hình nghệ sỹ đang hát. Đúng lúc bài hát đang làm căng gương mặt của họ, ở cổ mạch máu nổi lên, miệng mở rộng ..v.v. Tất cả các "tiểu tiết" này xuất hiện thường xuyên, và không được tính đến, khi quay cận cảnh. Thậm chí những hội thoại căng thẳng, kịch tính theo dõi ở trạng thái cận cảnh nhất thì không tốt. Nghệ sỹ Ưu tú, nhà quay phim Dương Đình Bá từng nói : - Nhiều cận cảnh tức là không còn cận cảnh. Hiện trong phim điện ảnh của chúng ta đang quá nhiều cận cảnh. Cận cảnh bị lạm dụng khiến cỡ cảnh này, vốn là cỡ cảnh của nội tâm nhân vật trong phim trở nên không đắt, mất “ thiêng “ và trở nên nhàm. Một mặt, cận cảnh trong phim của ta lại được sử dụng nhiều để trốn phông cảnh dựng, hoặc được “trám” vào để chữa sai trục diễn xuất.
   Cũng có những diễn viên luôn thích được quay cận và cận hẹp. Nhưng hình ảnh khi trình chiếu lại đem lại lỗi của quay phim. Khán giả không thể thiện cảm được khi một khuôn mặt béo và tròn của diễn viên lại được quay bằng ống kính tele ở cảnh cận hẹp ở góc máy chính diện. Ở một phương diện khác những khi nhân vật đang lắng nghe có thể quay thậm chí với cảnh cận hẹp, trạng thái  yên lặng của nhân vật  là cơ hội để truyền đến cho khán giả sâu sắc, chân thực nhất.
   Trên sân khấu, diễn viên diễn hình thể trong một không gian ước lệ mà tại nhà hát khán giả xem kịch nhìn thấy toàn bộ thân hình diễn viên cùng các hành động, cử chỉ. Nhưng điện ảnh với thế mạnh riêng của cận cảnh cho phép đi vào thế giới nội tâm của nhân vật. Cận cảnh điện ảnh cho phép điễn viên tìm thấy nhân vật của mình còn khán giả thông qua nhân vật gặp gỡ những diễn viên tài năng. Trong cuốn sách Nghệ thuật quay phim và video, tác giả Joseph V.Mascenll lưu ý các nhà quay phim khi quay cận cảnh cần chốt chặt chân máy. Song điều này rất khó cho quay phim khi diễn viên không tiết chế khi diễn xuất trong cỡ cảnh cận. Trong cỡ cảnh hẹp, mọi trạng thái động trên khuôn mặt, cổ và vai đều được mạnh hơn rất nhiều. Nhiều diễn viên với thói quen vừa thoại vừa gật đầu, đu đưa người khi diễn xuất gây những khó khăn không nhỏ cho quay phim khi quay cận cảnh. Nếu không điều tiết khuôn hình trong lúc quay thì đầu hay mặt của diễn viên sẽ có lúc chạm hoặc vượt ra khỏi khung hình bố cục. Điều chỉnh liên tục sẽ khiến các cảnh quay bập bềnh theo câu thoại của diễn viên, gây khó chịu cho cảnh quay lúc xem. Cận cảnh đòi hỏi diễn viên phải biết diễn xuất theo cỡ cảnh, còn người quay phim cũng phải thể hiện bản lĩnh của mình trong những “ca khó”.
    Đối với phim truyện và chương trình truyền hình  lựa chọn đúng và phù hợp vai diễn viên là một nửa của sự thành công. Cũng như nghệ thuật sân khấu, điện ảnh và truyền hình cũng hình thành công thức người với vai chính diện và người với vai phản diện. Ý tưởng cơ bản của tác phẩm thường đặt vào nhân vật chính diện.
Mặc dù vai trò của nhân vật phản diện đôi khi được trao cho nghệ sỹ với vẻ chính diện nhưng đa số các đạo diễn không đưa vai chính diện cho diễn viên có vẻ mặt phản diện. Tuyệt đối hóa chọn diễn viên theo vẻ bề ngoài tạo thuận lợi cho việc ghi hình, nhưng dễ dẫn đến việc trùng lặp, nói cụ thể hơn là “ thuộc mặt” nhân vật. Trong phim Việt nam, chúng ta từng thấy có diễn viên chuyên đóng bộ đội, công an, có diễn viên chuyên đóng kẻ địch hay tướng cướp, rồi những vai ông bố, bà mẹ đau khổ nhưng thương con có diễn viên liên tục đảm nhiệm. Số diễn viên đóng cả vai chính , phản diện không nhiều do đa số các đạo diễn muốn an toàn và không dám mạo hiểm. Trong số ít ỏi diễn viên sang ngang có Lâm Tới với nhưng vai anh Núi (Đường về quê mẹ - Đạo diễn Bùi Đình Hạc), Ba Đô (Cánh đồng hoang–Đạo diễn Hồng Sến) và Trần Sùng (Vĩ tuyến 17 ngày và đêm–Đạo diễn Hải Ninh)
                          Cảnh phim Mùi Cỏ Cháy – Đạo diễn Nguyễn Hữu Mười
Năm 2008 khi quay phim Người lính đặc nhiệm H88 chúng tôi đã gặp Lê Chí Kiên ở vai một tên cướp và cũng ấn tượng khá tốt ở vai phụ này. Nhưng đến năm 2010 và 2011 tôi đã lại gặp anh trong vai Đại đội trưởng Phong, phim Mùi Cỏ Cháy. Lê Chí Kiên đã gây cho chúng tôi sự bất ngờ về một người chỉ huy máy móc có phần nghiệt ngã với bộ đội trẻ, nhưng lại là người chỉ huy dũng cảm và nhân ái. 
   Trong phim nhân vật không phải lúc nào cũng đứng nguyên tại chỗ hoặc ngồi bất động để cho nhà quay phim… chụp ảnh. Chuyển động trong dàn cảnh, các điểm dừng đầu cảnh cuối cảnh của diễn viên chính là điều kiện để nhà quay phim xác định góc mặt chính cho cảnh đó một cách hiệu quả nhất. Nâng hay dịch máy quay, lựa chọn tiêu cự ống kính là những liệu pháp quan trọng để quay phim xắp đặt hoặc tìm ra những lợi thế nhất từ vẻ mặt diễn viên. Tài nghệ của nhà quay phim là xử lý đúng tiêu cự ống kính, góc máy và cỡ hình  cho từng khuôn mặt diễn viên trong cảnh diễn. 
Nếu nhân vật nhìn thẳng vào máy quay sẽ được coi là cận cảnh chủ quan.Với các cận cảnh này nhân vật các nhân vật có thể nói trực tiếp với người xem,như cận cảnh đã trích dẫn từ phim Hơi thở tàn ở phần trên. Nhiều đạo diễn đã sử dụng lợi thế của cận cảnh chủ quan để chuyển cảnh cùng với lời tự sự của nhân vật trước khi phục hiện một sự kiện trong phim. Quay chính diện, nhìn thẳng vào máy và nói chuyện với khán giả cũng chính là các cảnh quay MC trên màn ảnh vô tuyến truyền hình.
 Mặt chếch ¾ hay được sử dụng nhất khi chụp ảnh và quay chân dung nhân vật vì khai thác được lợi thế của vẻ đẹp, khối cũng như biểu cảm của khuôn mặt cũng như tình cảm từ đôi mắt. Khuôn mặt chếch ¾ thường được quay khi các nhân vật đối thoại với góc nhìn tương đồng.

 Góc mặt nghiêng ½ Góc máy hoàn toàn khách quan đối với các nhân vật trong cảnh khi máy quay ở vị trí vuông góc với hướng nhìn của họ. Khuôn mặt nghiêng dù không biểu lộ hết nội tâm nhân vật từ đôi mắt của nhân vật nhưng cá tính vẫn được thể hiện rõ nét nhờ diễn xuất diễn viên.Thường góc độ này được dành cho những người có sống mũi dài và thẳng. Ánh sáng ngược hoặc chếch ngược hay được dùng để tăng thêm vẻ đẹp nhân vật. Đối với các nhân vật nữ,khi ghi hình với góc máy nghiêng ½ so với khuôn mặt cũng là dịp để các diễn viên thể hiện lợi thế của mái tóc và hình thể mềm mại của mình trước phái mạnh.
   Ghi hình chân dung trong trường quay với chiếu sáng tự nhiên hay nhân tạo đặt ra cho công tác quay phim một số nhiệm vụ. Bản thân trường quay cần phải gây chú ý như phông, mà con người cần phải hòa nhập trong không gian đó. Chiếu sáng trường quay và con người trong nó cần phải mang tính biểu đạt, thể hiện rõ hình dáng, chi tiết, quy mô của địa điểm và đồng thời nhấn mạnh trạng thái của con người.
   Trong điều kiện sáng tự nhiên, khi đó ánh sáng chiếu vào từ các cửa sổ, tạo nên tương phản mạnh giữa sáng và tối trên gương mặt, cần thiết phải phụ sáng vào các phần tối bằng các tấm phản quang, cũng như sử dụng các thiết bị chiếu sáng với nhiệt độ màu 5600 K.
   Việc tạo ra ánh sáng có lợi nhất đối với mỗi nhân vật yêu cầu phải hiệu chỉnh ánh sáng cho gương. Hiệu chỉnh ánh sáng dựa trên 2 nguyên lý: có ánh sáng - có thông tin, có hình ảnh; không ánh sáng - không có thông tin, không có hình ảnh. Làm nhấn mạnh sáng trên phần gương mặt cần làm nổi rõ phần này hay làm tối phần khác, có thể thu hút sự chú ý. Ví dụ, nhấn sáng cho con mắt của nhân vật, làm tối chiếc cằm lớn hay chiếu sáng cái trán quá hẹp, như thể để tăng nó
   Khuôn mặt xương gầy có thể chiếu sáng bằng ánh sáng thuận, để sử dụng toàn bộ diện tích của nó. Mặt đầy đặn hoặc quá béo có thể được quay bằng ánh sáng bên với một phần mặt tối hơn. Trong điều chỉnh ánh sáng của khuôn mặt, người ta sử dụng những “đồ chơi”  như lưới, phên che, giấy mờ hay kính sof trước ống kính. Người hóa trang (make up) cũng giúp ích cho quay phim rất nhiều khi có thể tăng độ hốc hác hoặc tươi trẻ cho diễn viên theo yêu cầu của cảnh quay.  
P T H