Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

STANLEY KUBRICK- Đạo diễn của những miền khám phá

 (Bài đăng Tạp chí Thế giới Điện ảnh)                                                                          
 NSƯT Phạm Thanh Hà
Điện ảnh dã hơn một trăm năm tồn tại và phát triển với nhiều thành tựu, biến cố, tiêu chí thẩm định các tác phẩm cũng như “khẩu vị” của các thế hệ khán giả với các thể loại phim cũng đổi thay theo năm tháng. Nhưng Stanley Kubrick vẫn luôn được coi là một trong những nhà làm phim vĩ đại nhất của mọi thời đại. Đạo diễn lớn của điện ảnh Mỹ đương đại với ba Giải Oxcar, Steven Spielberk đã coi tác phẩm 2001 A Spacy Odissey của S. Kubrick như là một vụ nổ “big bang” của thế hệ của mình bởi hiệu ứng kỹ xảo và tính hiện thực của khoa học. Đạo diễn nổi tiếng Canada Norman Jevison gọi ông là một trong những đạo diễn bậc thầy của điện ảnh Hoa kỳ. Nhà phê bình điện ảnh Pháp Michen Ciment thì giá các tác phẩm điện ảnh của Kubrick là một trong những đóng góp lớn nhất của điện ảnh thế giới thế kỷ 20.
 Với những người làm phim trẻ cũng như đa phần khán giả Việt nam luôn coi rạp chiếu là chốn giải trí cũng nên biết S.Kubric là ai để hiểu rằng dù ông đã mất từ năm 1999 nhưng những thành tựu mà Kubrick để lại vẫn mang dấu ấn trong những bộ phim hiện đại thường ngày trong các bộ phim chiếu rạp. Các tác phẩm điện ảnh bất hủ của S. Kubrick, dù là chuyển thể từ tiểu thuyết hay truyện ngắn đều được ghi nhận thành công rực rỡ, biểu hiện ngôn ngữ điện ảnh độc đáo, chi tiết mang tính hiện thực chủ nghĩa và hứng khởi với nhạc điệu. Phim của ông gồm nhiều thể loại mà điện ảnh ngày nay đang có, bao gồm cả chiến tranh, tội phạm, phim hài lãng mạn, phim đen trắng, phim kinh phí thấp, phim bom tấn, kinh dị, sử thi và khoa học viễn tưởng. Không quá cường điệu mà nói, các tác phẩm của ông là một bách khoa toàn thư về điện ảnh.
Sự nghiệp vinh quang của Kubrick bắt đầu từ  chiếc máy ảnh Geflexx do cha tặng năm 13 tuổi và từ đây ông bắt đầu khám phá thế giới hình ảnh. Dấu ấn qua một giai đoạn ngắn làm nhiếp ảnh ảnh gia còn để lại trong các tác phẩm điện ảnh vĩ đại sau này của ông với những tư duy hình ảnh độc đáo. Hai bộ phim đầu tay của Kubrick hoàn toàn là phim độc lập, khi mà ông tự phải bỏ vốn, viết kịch bản, đạo diễn kiêm quay phim. Nụ hôn của kẻ giết người Fear and Desire (1953). Phim thứ hai – Nụ hôn của kẻ giết người- với số tiền ít ỏi 40 000 đô la được vay từ một hiệu thuốc, nhưng Kubrick đã gây được sự chú ý với Giải Đạo diễn LHP Locarno 1959. Hai bộ phim tiếp theo của ông là The Killing Paths of Glory đều gây sự chú ý đặc biệt với hai đề cử BAFTA của Viện hàn lâm điện ảnh Anh quốc cho phim hay nhất. Sự nghiệp làm phim rực rỡ của Stanley Kubrick được đánh dấu bằng 15 đề cử Giải Oxcar cho các hạng mục, và được một số Giải cá nhân. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ông chỉ một lần được đứng trên bục để nhận vinh danh cho Giải hiệu ứng hình ảnh cho phim 2001- Chuyến du hành ngoài không trung mà ông là tác giả thực hiện. Dẫu “kém duyên” nhưng Kubrick vẫn được ghi nhận là một trong những bộ óc điện ảnh vĩ đại nhất. Câu châm ngôn của ông : -Những gì được nghĩ ra và viết được ra đều có thể dựng thành phim, đã trở thành bất hủ, thành tiêu chí cho các thế hệ đạo diễn trẻ sau này.
Cuộc viễn du đến tương lai
Cả cuộc đời nghệ thuật của ông là một chuyến viễn du và mỗi sáng tác cuả Stanley Kubric là một khám phá mới. Bộ phim thật sự là một cuộc thám hiểm về tương lai của Kubrick. Những năm 1967-1968 khi mà người Mỹ đang cố gắng đưa người lên mặt trăng thì Kubrick lấy cảm hứng từ truyện ngắn của Clarke để làm bộ phim thám hiểm lên sao Mộc. Truyện và phim viễn tưởng không còn quá xa lạ trong văn học và điện ảnh, nhưng bộ phim 2001 Chuyến du hành ngoài không trung trải qua gân 50 năm, đến nay càng ngày càng trở nên hiện thực. Bộ phim đi trước thời đại của Kubrick đã minh chứng về khả năng lập trình của máy tính, và tệ hại hơn – Sự lệ thuộc của con người vào máy tính thông qua cuộc chiến đấu giữa các phi hành gia vũ trụ với máy tính HAL 9000, sản phẩm của chính con người làm ra. Gần đây, hàng triệu người trên thế giới bị thuyết phục trên Youtube khi Sam Sung chứng minh ý tưởng về máy tính bảng mà do Apple sao chép từ phim của Stanley Kubrick. Đó là một đoạn trích từ bộ phim có sẵn trên YouTube ,  cho thấy các phi hành gia ăn trong khi xem một chương trình truyền hình trên bằng phẳng, máy tính cá nhân. Sam Sung tại Mỹ dù bị thua kiện nhưng tên tuổi của đạo diễn tài danh lại được nhắc tới với những tư duy đi trước thời đại.
Những cảnh quay kỹ xảo của Kubrick trong  2001: A Space Odyssey- (Chuyến du hành ngoài không trung) vẫn tạo được ấn tượng đặc biệt, mà không hề thua kém so với kỹ xảo hiện đại. Cảnh quay cậu bé Hugo trượt trong lòng máng của tháp đồng hồ cổ Paris, trong phim Hugo 2011 của đạo diễn Martin Scorsese với 5 Giải Oxcar mang có nét tương đồng các cảnh quay phi hành gia đi lộn tròn trong khoang tàu vũ trụ trong phim của Kubric. Điều khác biệt là phim của Scorsese thực hiện bằng máy quay kỹ thuật số, ứng dụng bằng đồ họa 3D còn phim của Stanley thì thực hiện trước đây 45 năm. Kubrick đã đặt thiết kế một trường quay cao 12m, rộng 34m với bánh quay 30 tấn, có thể xoay tròn. Máy quay cũng xoay tròn đồng trục với trường quay, còn diễn viên bước tại chỗ nhưng người xem thấy anh ta đi ngược lên vòm khoang tàu vũ trụ, lộn đầu xuống dưới. Trường quay của Kubric trị gí 750 nghìn đô la, một con số rất lớn so với kinh phí lám phim của nửa thế kỷ trước. Để tạo ra những ảo giác trong không trung Kubric còn ứng dụng công  nhiếp ảnh slit-scan để tạo hiệu ứng hình ảnh những tinh vân vũ trụ huyền ảo với những sắc màu rực rỡ.
 Đạo diễn phim Hugo luôn coi Kubrick như người thầy của mình. Martin Scorsese nói: Tôi đã theo đuổi liên tục và nghiên cứu phong cách làm việc của Kubric trong những năm qua. Chỉ có ông sau mỗi bộ phim lại định nghĩa lại phương tiện và khả năng của nó. Nhưng ông đã được nhiều hơn một sáng tạo kỹ thuật.Không phải ngẫu nhiên trong top 10 phim khoa học viễn tưởng xuất sắc nhất mọi thời đại, 2001 A Space Odissey luôn đứng đầu, vượt lên trên những bộ phim kinh điển của Fristz Lang là Metropolis 1927,Solaris của Tarcovxki và The Matric của anh em Wachowxki… Các phim Star WarsStar Trek sao này đều lấy cách nhìn về không gian vũ trụ và tàu vũ trụ từ Kubrick và các mô hình trong phim của ông, nhưng việc tạo ra các hình ảnh bằng máy tính đã làm mất đi những điều kỳ diệu về không trung mà Kubric đã mang đến. Xin nhắc lại, phim 2001 - Chuyến du hành ngoài không trung của ông từng đứng đầu các phòng bán vé Bắc Mỹ năm 1970.
 Bên cạnh sự cầu toàn và chỉn chu đến từng chi tiết trong cảnh diễn, Stanley Kubric luôn đi trước thời đại của mình về công nghệ mới nhất. Steadicam được nhà quay phim người Mỹ Garret Brown đưa ra lần đầu tiên vào năm 1970  thì bộ phim The Shining 1980 của Kubrick là một trong vài phim đầu tiên sử dụng thiết bị chuyển động máy này. Trong một cảnh quay dài máy quay theo cậu bé trên xe lăn đi từ hành lang này sang hành lang khác, nhờ ứng dụng steadicam mà Kubrick  đã có một cúa chuyển động máy linh hoạt, vượt ra khỏi những động tác máy cổ điển bằng dolly và cần trục.
Cá tính đi tiên phong trong công nghệ điện ảnh của Stanley Kubrick từ sớm, ngay từ năm 1960 ông đã sử dụng phim super 35 để in sang phim chiếu 70mm trong phim Spartacus, sử dụng ống kính anamorphic để chiếu trên màn ảnh rộng. Nhờ đó những toàn cảnh với 8000 quân lính La Mã càng trở nên hoành tráng. Cho đến nay, Spartacus vẫn được xếp thứ 5 trong Top 10 phim sử thi của Viện phim Mỹ AFI.
Thám hiểm quá khứ
 Bộ phim Barry Lindon 1974 đánh dấu những đột phá về mặt tạo hình, kỹ thuật ánh sáng, nhưng lại là một cuộc thám hiểm về lịch sử văn hóa của Staley Kubrick. Mỗi khuôn hình trong phim là một bức tranh mang phong cách hội họa Anh thế kỷ 18.
Các cảnh quay bố cục cân đối, góc máy chính diện. Tâm điểm Kubrick, mà sau này người ta đã ghi nhận như một thuật ngữ điện ảnh, một phong cách riêng của ông là bố cục hinh ảnh theo các đường nét xuyên tâm, hút vào giữa khuôn hình phim. Điểm hội tụ tâm hình cũng phổ biến trong hội họa cổ điển. Các bộ phim khác của Kubrick như 2001 A Space Odissey, The Shining, Full Metal Jacket…  cũng đều thể hiện Tâm điểm Kubrick.
 Với Kubrick mỗi phim là một phát minh. Ở phim Barry Lindon, nhiều trường đoạn nội cảnh quay nội cảnh hoàn sử dụng ánh sáng nến mà không hề dùng đến ánh sáng điện. Theo nhà quay phim Jon Alcot, đoàn phim đã sử dụng loại nến chân to hơn bình thường nhằm tăng cường độ ánh sáng. Tuy nhiên để ghi hình trong điều kiện cường độ ánh sáng chỉ 3 candela mà phim độ nhạy cao cũng không bắt được sáng, Kubrick đã cho cải tạo để sử dụng ống kính card zeis 50mm của Nasa, với độ mở khẩu độ tối đa 0,7. Các trường đoạn nội cảnh ngày không có hiệu quả ánh sáng nến thì được quay bằng phim độ nhạy cao, sử sụng hoàn toàn sáng trời hắt vào, hoặc dùng đèn che thun chiếu qua cửa sổ nhằm tạo hiệu quả ánh sáng khuếch tán có hướng, ánh sang tự nhiên như mắt thường nhìn thấy. Nội cảnh phim quay vào mùa đông, trong điều kiện ánh sáng trời đều và ổn định. Đó là một bộ phim đáng sợ vì tất cả vẻ đẹp dưới ánh nến, nhưng đó lại là một tấm màn che đậy sự tàn ác tồi tệ nhất, điều mà người ta thấy hàng ngày trong xã hội thượng lưu. Phim Barry Lindon nhận được bố Giải Oxcar danh giá trong đó có Giải hình ảnh cho Jon Alcot.
 Trong sáu bộ phim cuối cùng của mình Kubrick đã làm một cuộc hành trình khám phá quá khứ bằng âm nhạc cổ điển, ông tư duy cảnh quay từ những hình ảnh âm nhạc tuyệt vời trong đó. Người ta nói rằng Kubric nghe nhạc cho đến khi phát hiện ra một điều gì đấy. Để đưa vào một trường đoạn Barry đấu súng với quý tộc trẻ Lord Bullingdon phải trải qua 42 ngày chỉnh sửa, trong thời gian đó ông đã nghe các bản nhạc châu Âu thế kỷ 17- 18. Còn trong phim 2001 A Space Odissey âm hưởng của bản nhạc Danube Blue của Johann Strauss đã dần đưa khán giả vào không trung vũ trụ và đắm chìm trong không gian hình ảnh của người đạo diễn bậc thầy.
  Dù chinh phục được cả tương lai lẫn quá khứ, nhưng điều duy nhất mà Stanley Kubric chịu bỏ cuộc là bộ phim về Napoleon Bonaparte mãi vẫn là phim trên giấy, dù ông đã bỏ ra hai năm trời chuẩn bị. Thành công vang dội về nghệ thuật nhưng không có hiệu quả tài chính tại các phòng vé của bộ phim Chiến tranh và Hòa bình-  đạo diễn Liên Xô Xergây Bondartruc khiến các nhà đầu tư cho phim của S. Kubrick bị lung lạc. Đây cũng là điều luyến tiếc của nhiều đồng nghiệp và những khán giả yêu quý ông trên khắp thế giới. Năm 2011, tác giả Taschen cho xuất bản cuốn sách về  “Napoleon Kubrick” , trong đó nói về sự chuẩn bị công phu cho một kiệt tác sử thi bằng điện ảnh của Kubric về nhân vật lịch sử từng chinh phục châu Âu. Như đồng cảm với Taschen, tháng 3/2013 mới đây, đạo diễn Steven Speilberk tuyên bố tại Liên hoan phim Can là Napoleon Bonapark sẽ được chuyển thể kịch bản gốc thành seri phim truyền hình ngắn. Kịch bản và đạo diễn sẽ là Andrew Bỉrkin- một trong những trợ lý trẻ của Kubtrick trong phim 2001 Chuyến du hành ngoài không trung.

PTH.

SỨC MÊ HOẶC KỲ DIỆU CỦA MỘT THẾ HỆ

                                                                         ( Vài cảm nghĩ về phim Mùi Cỏ Cháy)
 Đạo diễn: Nguyễn Anh Tuấn
I. Trước khi xem phim "Mùi Cỏ Cháy", tôi có đọc một bài viết, trong đó đạo diễn - NSND Huy Thành phát biểu: "Chỉ riêng phim Mùi Cỏ Cháy đã là thành công của LHP 17 rồi." Tôi đã bật cười, coi đó chỉ là nhận xét cho vui của một bậc trưởng thượng... Nhưng, sau khi xem bộ phim này, càng ngẫm, tôi càng thấy nhận xét trên có lý sâu xa...
Cách đây 6, 7 năm, tôi được nhà biên kịch Hoàng Nhậm Cầm kể ý tưởng rồi đọc cho nghe kịch bản đầu tiên của "Mùi Cỏ Cháy". Khi nghe xong kịch bản qua vài lần rít thuốc lào của Cầm, bằng cái giọng khàn khàn và ánh mắt long lanh rực cháy của anh, tôi đã chợt nghĩ thầm: nếu ý tưởng này, kịch bản này thành phim, thì Cầm của tôi mới hoàn toàn thoát hẳn cái thân phận và cái ấn tượng mà người ta vẫn nhớ về Cầm là một "Bác sĩ hoa súng" trong suốt thời gian dài anh phải làm người ta cười trong nước mắt của anh, nước mắt của một kẻ đau nghề, sống chết với nghề, muốn làm một cái gì cho tử tế, cho ra hồn trong nghiệp điện ảnh mà phải giấu khát vọng trong cái hài bất đắc dĩ đối với anh...
Tới lúc được nhìn thấy, nghe thấy những gì máu huyết của Cầm hiện lên trên màn ảnh lớn, thú thực là, tôi đã đôi ba lần không cầm được nước mắt - trong đó chắc hẳn phải có giọt nước mắt đồng cảm với "anh hề" HNC từng phải múa may quay cuồng trước đây vì miếng cơm manh áo... Tôi đã cố cưỡng lại cảm xúc tự nhiên của một người xem phim để cảm thụ dưới góc độ của một người làm nghề. Và tôi đã thất bại. Song, cái được lớn nhất là tôi đã được sống lại trọn vẹn với một thời tuổi trẻ của tôi, của cả một thế hệ... Tôi đã khóc nhớ đến Nông- đứa em trai kết nghĩa, ứa lệ nghĩ tới những người bạn sinh viên văn khoa, những gương mặt măng tơ, những ánh mắt trong trẻo, những tâm hồn thơ mộng đầy hoài bão đẹp - y hệt những em diễn viên đóng vai lính trẻ trong phim- họ đã hồn nhiên ra mặt trận, đã ném tuổi thanh xuân của mình vào những "Đồi thịt băm" (tên một bộ phim làm về chiến tranh VN của đạo diễn Mỹ nổi danh Olive Stone) và vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa... Tôi cũng đã ngậm ngùi nghĩ đến cái rủi của mình khi bị loại khỏi hàng ngũ những người ra trận kia chỉ vì cận thị...
Nhưng tôi không nên bàn thêm về những thụ cảm riêng về phim, càng không nên nói về những giọt nước mắt của mình về bộ phim- bởi thực chất chúng sẽ không nói lên được là bao giá trị đích thực của một tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật vốn có tác động trực tiếp tới khán giả.
"Mùi Cỏ Cháy" là một phim làm theo kinh phí Nhà nước, và với đề tài này, ai cũng có thể coi đó thuộc về loại "phim Cúng cụ" xưa nay! Song, với kinh phí làm phim chỉ bằng 1 phần 10 ( thậm chí còn ít hơn nhiều lần thế) so với những phim giải trí tư nhân trước nay, so với tất cả những phim truyện nhựa trong LHP lần thứ 17 này, những người làm phim "Mùi Cỏ Cháy" phải nói đã lập được một "kỳ tích" đáng nể là đã tự cắt bỏ được cái "bướu" kinh niên mang tên: "Phim Cúng cụ"! Cả phòng chiếu của Hội Điện ảnh đã ngồi lặng đi cho đến dòng chữ phim cuối cùng, đèn bật sáng trên những gương mặt nhòa lệ và lúc đó mới dậy lên tràng pháo tay cổ vũ cảm động... Bộ phim chinh phục hầu hết khán giả trong phòng chiếu không chỉ vì lòng dũng cảm của đạo diễn Nguyễn Hữu Mười và tập thể làm phim đã dám đi vào một đề tài "hóc", có tiếng là không ăn khách, với một kinh phí quá bèo bọt ( đã hàng chục đạo diễn từ chối dự án phim này), không chỉ vì trong đó có những gì đã từng gắn với máu thịt của những người xem phim, mà cái chính là những gì thân thiết và đau đớn ấy của cuộc sống đã được tập thể làm phim thể hiện một cách giản dị, chân cảm, bằng một thứ ngôn ngữ điện ảnh khá cổ điển, và thực chau chuốt trong từng khuôn hình, từng diễn xuất... Trong "Mùi Cỏ Cháy" có khá nhiều trường đoạn phim, tình tiết phim có  khả năng tạo "sức nổ" rất mạnh trong lòng người xem. Ví như trường đoạn tả cuộc hủy diệt Thành cổ Quảng Trị của đạn pháo địch: những cột sóng, cột khói lửa, những thân xác người bắn tung trong nước và trên không gian... trên nền nhạc giao hưởng mà không một tiếng động thực nào. Như trường đoạn cuộc tỏ tình dễ thương của chàng lính trẻ bên giếng nước với cô thôn nữ làng với cây ghi-ta, rồi sau đó là cuộc chia tay vội vã giữa hai người trẻ tuổi. Như tình tiết tấm ảnh chụp bộ tứ Hoàng - Thành - Thăng - Long được cài từ đầu phim cho tới đoạn kết phim. Như tình tiết chiếc đàn ghi-ta cháy trong lửa. Như tình tiết những con dế được lính thả lại trước khi vượt sông Thạch Hãn, v.v. Theo cách nói của một nhà văn nước ngoài: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn" mà ta có thể áp dụng vào điện ảnh: "Chi tiết nhỏ làm nên bộ phim lớn", thì "Mùi Cỏ Cháy" có không ít những chi tiết như thế... Cái khó của một phim đề tài chiến tranh là phải tạo ra không khí chiến tranh một cách chân thực, và ở đây, tính chất khốc liệt tàn bạo của một cuộc hủy diệt mà đối phương nhằm vào cái đích là Thành Cổ và ý chí sắt thép quyết giữ bằng được vị trí này của quân giải phóng đã được những người làm phim thể hiện một cách tối đa trong điều kiện tối thiểu của mình!
Toàn cảnh chiến tranh - chết chóc và nguy hiểm rình rập đã hòa nhập một cách tự nhiên với những mảnh đời sống riêng tư của từng nhân vật cũng như của "nhóm" nhân vật (Hoàng- Thành- Thăng -Long) tựa một sinh mệnh hữu cơ, ở đó có tiếng cười vui tếu táo, sự nhớ nhung, giây phút sợ hãi và không thiếu sự tinh nghịch kiểu học trò, sự hóm hỉnh của giới sinh viên... Hãy nhớ lại ánh mắt hồn hậu đến se lòng của cô thôn nữ khi nghe binh nhì Long tâm tình. Hãy nhớ lại vẻ mặt khó đăm đăm song không dấu được khóe mắt rưng rưng bởi tình yêu thương, lòng cảm phục, cả một nỗi xót xa trìu mến của trung đội trưởng Phong khi buộc phải khiển trách một chiến sĩ trẻ của anh...
Một hệ thống nhân vật được dụng tâm miêu tả để đăng đối với những người lính trẻ ra trận là những người mẹ - đều là do những nghệ sĩ điện ảnh có tên tuổi đảm nhiệm- đã tạo nên một bè trầm quan trọng trong dàn tổng phổ, và điều này, trong tất cả tính chất "kinh điển" của nó đã góp phần lớn tạo nên cảm xúc rất mạnh cho toàn bộ phim. Tình tiết bức ảnh người mẹ trong túi áo đối phương (người lính ngụy vừa bị bắn chết) rơi vào tay một người lính trẻ quân giải phóng là một tình tiết thú vị, tuy nhiên, chưa được các nhà làm phim đào sâu tới độ cần thiết.
Những gương mặt người lính trẻ tựa thiên thần trước đó lại được khắc họa bằng ánh sáng viền không sắc nét mà cũng không nhạt nhòa trong bóng tối, khi cận cảnh, khi trung - toàn cảnh đã được nhà quay phim Phạm Thanh Hà tính toán kỹ lưỡng để tạo hiệu quả ấn tượng rất mạnh: những con người đang sống đây nhưng đã quyết biến mình thành những "âm hồn của địa phủ" sẵn sàng dành cho đối phương những đòn sấm sét... So với nhiều phim mà Thanh Hà đã quay, tôi nhận rõ một điều: ở phim này, anh đã thăng hoa cảm xúc cùng sự huy động tổng lực  những kinh nghiệm, kỹ xảo mà anh đã tích lũy được trong một đời cầm máy của mình! 
Trong việc chỉ đạo diễn xuất, có thể thấy rõ một điều là: đạo diễn đã biết phát huy khả năng tiềm tàng của các diễn viên, và đạo diễn cùng biên kịch thực sự đã biết cách truyền tới diễn viên trẻ những cảm xúc, những trải nghiệm của chính mình về một thời chiến trận đã qua, cho nên, ngoài sự hồn nhiên sẵn có để vào vai trẻ, họ đã "nhập thần" được vào cái không khí của một thời chiến xa lạ đối với họ, họ đã sống với vai như chúng sinh ra là để dành cho họ vậy!
Nếu có thể có điều hơi đáng tiếc ở bộ phim này, theo tôi chính là: trong nhóm nhân vật đã được xây dựng khá công phu, lẽ ra nên có một nhân vật làm trung tâm, được khai thác kỹ hơn, có chiều dày hơn, có sức lắng hơn, đấy sẽ là nhân vật phát ngôn thay cho cả nhóm 
Nhìn tổng thể, "Mùi Cỏ Cháy" đáp ứng được khá nhiều tiêu chí về tư tưởng- nghệ thuật của một bộ phim truyện; và cái đạt lớn nhất là đã tạo nên được một hình tượng khá hoàn chỉnh và "mê hoặc" về một lớp người tuổi trẻ xuất thân từ sinh viên mặc áo lính! Mê hoặc không chỉ bởi những vần thơ từng được chép trong sổ tay của bao thế hệ ra trận giờ được ngân nga trong những thước phim, không chỉ bởi nỗi khát khao tình yêu nam nữ của họ được bộc lộ một cách chân thành đáng yêu, mà bởi một cái gì đó tưởng chừng như vô hình song lúc nào cũng chợt bùng cháy trong tâm hồn họ: Tình yêu Tổ quốc thiêng liêng... Cũng có những lúc Tình yêu thiêng liêng đó tạm thời bị "hóa thạch", nhưng vào giờ phút Tổ quốc bị lâm nguy, danh dự Dân tộc bị xúc phạm, nó sẽ được giải phóng và hóa thân một cách kỳ diệu! "Mùi Cỏ Cháy" đã hiện thực hóa và nghệ thuật hóa được một trong những "giờ phút" đặc biệt đó của Lịch sử! Và có thể khẳng định, đây là điểm son rạng rỡ nhất cần ghi cho "Mùi Cỏ Cháy" mà nếu nó không được đánh giá một cách đầy đủ, đúng mức thì thực đáng tiếc không phải chỉ đối với riêng phim "Mùi Cỏ Cháy"...

II. Tôi đã dừng bút bài phê bình nhỏ này, nếu như không đọc bài PV ông Đinh Anh Dũng - thành viên BGK phim truyện nhựa tại LHP thứ 17 ( Hà Nội mới, trang văn hóa 17/12/2011), và có đôi điều muốn trao đổi cùng ông, với tư cách là một đồng nghiệp.
Không ai có thể tranh cãi với Đ A Dũng khi ông nói: "Ta hoàn toàn có thể làm bật lên một đề tài cũ bằng một cách kể hiện đại. Ví dụ, chúng ta rất yếu về làm phim chiến tranh. Cứ tưởng là vì nhiều nguyên nhân to tát, nhưng ngẫm kỹ ra mới thấy có những điều thuộc về chi tiết, về tư duy." Nhưng khi ông nói tiếp: "Có khi chỉ cần một đoạn ấn tượng chứ không cứ phải nổ đì đùng suốt phim" thì ta buộc phải đặt câu hỏi: Các phim nước ngoài làm về chiến tranh như: Điện Biên Phủ, Giải cứu binh nhì Ryal, Trân Trâu cảng, Pasific, Giải phóng… cũng "nổ súng đì đùng" suốt phim sao ông Đ A Dũng không chê bai, mà lại ám chỉ một bộ phim truyện duy nhất của LHP VN 17 về đề tài chiến tranh mà ai cũng hiểu đó là phim "Mùi Cỏ Cháy"? Tuy rằng phim chiến tranh của ta điều kiện kinh phí kém xa phim nước ngoài, nhưng nếu làm được thì cũng đáng trân trọng, sao lại nỡ xét nét theo lối mà không khéo người ta sẽ nghĩ là hơi tiểu nhân? Theo lời ông Đ A Dũng, phim có khi chỉ cần “một đoạn ấn tượng mà thôi”, nhưng phim Mùi Cỏ Cháy lại có nhiều đoạn rất ấn tượng là có lỗi hay sao? Nếu chỉ là nhận xét của cá nhân ông Đ A Dũng là một nhà quay phim thì chẳng sao, nhưng đó lại là phát ngôn của một thành viên BGK phim truyện nhựa thì thực đáng thất vọng!
Trong bài PV trên, ông Đ A Dũng nói: "Tôi thấy ngôn ngữ điện ảnh của ta đa phần là cũ lắm rồi." Xin thưa ông, ngay cả điện ảnh của thế giới hiện tại vẫn có dòng phim kinh viện, thể hiện ngôn ngữ hình ảnh truyền thống song song với các dòng phim có khuynh hướng cách tân… Nếu xem phim "Kiêu hãnh và định kiến"  (Pride and Prejudice), hoặc "Người đọc sách" (The Reader)- ta thấy ngôn ngữ điện ảnh của hai bộ phim có giá trị nghệ thuật cao kể trên sản xuất cách đây vài năm đâu có gì gọi là "mới" trong thể hiện? Phim ta chất lượng nghệ thuật còn kém xa phim thế giới, nhưng cũng không nằm ngoài quy luật: bài bản và phá cách luôn cùng song hành. Nếu nghĩ đổi mới là tất cả đều phải làm ngược lại, chỉ làm khác trước mà phủ nhận hoàn toàn cái có trước là hoàn toàn võ đoán. Phim "Mùi Cỏ Cháy" là một phim chủ yếu làm theo phong cách "kinh điển", nếu theo "tiêu chí hiện đại" của ông nhằm mục đích bênh vực những phim khác mà ông đã nhắm trước (hoặc được giao phó sứ mệnh) thì thực oan uổng cho "Mùi Cỏ Cháy", và xem ra cũng oan uổng cho trình độ lý luận của một người đã từng theo học công nghệ điện ảnh Hoa Kỳ như ông chăng?
Xin nói thêm, ngay cả dòng phim kinh dị của nước ngoài hiện nay đang “hot” mà một vài đạo diễn của ta đang tâm đắc cũng bắt đầu từ những tác phẩm của Hittcok những năm 40 của thế kỉ trước. Hay như phim về tình yêu đồng tính của đạo diễn Lý An với Brokeback Mountain (Núi lạnh) đã thành công rồi, bây giờ ở ta mới có một vài phim làm theo, đây là sự bắt chước chứ không phải cách tân!!! Còn phim "Hot Boy nổi loạn …" của Vũ Ngọc Đãng, bên cạnh một nỗ lực đáng ghi nhận, nhưng xét cho cùng là đã cố sức tìm một đề tài mới mà chưa có gì thật là mới trong cách thể hiện. Chưa kể là, nếu đặt ngang bằng sổ thẳng một phim giải trí (mà thị trường phim của ta đã, đang gần như bội thực) bên cạnh một phim như "Mùi Cỏ Cháy" thì có vẻ như là một cuộc chơi thiếu sòng phẳng! Nhưng bài viết này không muốn đi lạc sang vấn đề khác nữa.
Còn một điều sau cùng mà tôi không thể không nói...Trong bài PV trên, với tư cách là Giám khảo, khi nói về quay phim, tôi nhận thấy là ông Đ A Dũng có những lời rào đón mà chẳng cần thông minh cho lắm cũng hiểu... Thực ra những ai mà Giám khảo họ Đinh thích đều nằm trong danh sách đề cử, và hai người trong đó đã nhận giải quay phim. Buổi tối 17/12 mới trao giải mà 7h30 sáng đã thấy bí mật được “bật mí” trên mặt báo thì quý ông đã vi phạm quy chế của LHP rồi! Vả lại, cho dù có quý mến và thiện cảm ai đi nữa thì làm giám khảo phải công tâm, chứ không phải thích ai thì trao giải người đó. Bóng đá nước ngoài đã có ông trọng tài từng phạt thẻ vàng chính ngôi sao thần tượng của mình trên sân cỏ. Tóm lại, giám khảo phải đứng trên bình diện chung mà  phán xét khách quan, không nên chỉ tung hô những ai cùng gu với mình. Điều này thì ngược lại với những gì mà ông Đ A Dũng tuyên bố với báo chí: "Quan điểm của tôi khi ngồi ghế giám khảo là phải bảo đảm 3 tiêu chí: khách quan, trung thực, bí mật. Đừng để quan hệ cá nhân xen vào những nhận định chuyên môn."( Bài PV đã nêu)
Thực chẳng hay ho gì đối với tôi khi đang hào hứng với một bộ phim hiếm hoi thành công về chiến tranh của ta mà lại phải sa vào một chuyện "hậu trường" chẳng hay ho gì của một LHP Quốc gia! Nhưng biết làm sao được... Máu xương của những người lính trẻ- trong đó có em trai tôi, bạn bè thân thiết của tôi đổ xuống đâu phải là vô ích khi mà những người làm nghề điện ảnh nói riêng, làm công tác văn hóa nói chung vẫn còn khát khao trân trọng những gì là công bằng, lương thiện...
Hà Nội,  Cuối năm 2011
NAT